Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

Tổ Sư Thiền

Giới Thiệu về Tổ Sư Thiền
PDF.
In


 Thích Giác Tân
     


Thiền là một phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi đức Phật Thích Ca còn tại thế, đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ Niệm Xứ, Thiền Na Ba La Mật v.v…
Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tuỳ theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tánh.
Được biết Tổ Sư Thiền bắt đầu từ Phật Thích Ca truyền lại cho Ngài Ma Ha Ca Diếp, đến ngài A Nan rồi truyền tới Tổ thứ 28 là ngài Bồ Đề Đạt Ma được tôn làm sơ tổ Thiền Tông Trung Hoa, truyền cho Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Quy Ngưỡng và Vân Môn.
Mỗi phái đều có phương tiện cơ xảo riêng để khế hợp với từng cơ duyên của đệ tử. Tuỳ mỗi đương cơ mà chư Tổ, hoặc nói, hoặc nín, hoặc dùng gậy đánh hay dùng tiếng la, tiếng hét v.v. . . Các phương tiện cơ xảo ấy giống như chuyện vô lý nhưng lại có tác dụng làm ngưng suối nguồn ý thức của người đệ tử lúc bấy giờ. Mục đích là đệ tử ngay sát na đó khai ngộ. Các Ngài không muốn đệ tử sa lầy trong văn tự chữ ngghĩa, chỉ cần ngưng dòng tâm ý thức để trực thấy bản tâm, bản tánh của mình. Do đó một người khi nhập môn dòng thiền Lâm Tế liền bị tiếng la hết hay khi nhập môn dòng thiền Đức Sơn liền bị đánh v v… là vậy, người tham thiền thời đó cảm thấy thích hợp với cơ xảo nào thì đến phái đó theo học. Tuy khác nhau ở cơ xảo nhưng sự ngộ chẳng khác.
Lâm Tế và Tào Động là hai phái thiền Tổ Sư còn tồn tại truyền qua Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Ngày nay, khi nói đến Tổ Sư Thiền người la lập tức nghĩ tới việc tham công án và nghĩ rằng tham công án cũng tương tự như khán thoại đầu, thật ra công án và thoại đầu có khác nhau mặc dầu mục đích không khác nhau. Đa số các công án có chuyện tích phức tạp, thí dụ công án Vô của Thiền sư Triệu Châu. Một ông tăng hỏi hoà thượng Triệu Châu “con chó có Phật tánh không?” sư đáp “Không”. Vị khác hỏi “con chó có Phật tánh không?” sư đáp “Có” với người kia?! Tại sao các loài hữu tình chúng sanh đều có Phật tánh mà hoà thượng Triệu Châu lại nói không nếu không thì ý Ngài ở đâu, thắc mắc không biết vv. . . Còn khán thoại đầu, đơn giản hơn, không có chuyện tích phức tạp như thế mà chỉ là câu hỏi. Ví dụ như câu “Niệm Phật là ai?. Hay, “trước khi cha mẹ chưa sanh, mặt mũi bổn lai của ta ra sao?”

Mục đích của tu Tổ Sư Thiền là làm ngưng lại dòng tâm ý thức (thường lưu) trôi chảy liên tục trong tâm con người từ thời vô thuỷ. Chư Tổ sư dùng cơ xảo để làm cho đương cơ bật ngược lại, vượt qua bức màn vô minh từ vô thuỷ, vượt qua luôn bờ bên kia của vô thuỷ vô minh, hoàn toàn giác ngộ, như vàng đã tôi luyện, loại bỏ hết tạp chất.
Bản thể chân tâm của chúng ta vốn thanh tịnh, nhưng vì một niệm bất giác, tức nhất niệm sinh khởi, nên sinh ra ý thức phân biệt, gây thành có ta, có cái không phải ta, sinh ra đối đãi, từ đó lòng tâm ý thức tham sân si dấy lên, ngày càng dày đặc, càng trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi tạo nghiệp trả quả, vay trả không ngừng. Nay muốn trở về cội nguồn thì phải dừng được dòng tâm ý thức, nghĩa là dừng lại những tạo tác của ý thức thường nghiệm, luồng tư tưởng những ý niệm và nhận thức.
Thoạt kỳ thuỷ, chưa có công án, mà chỉ là cơ xảo của chư Tổ, tuỳ theo căn cơ của người đối diện mà tháo gỡ vướng mắc đã khiến họ kẹt cứng, không hội nhập lại bản thể được, thí dụ như Lục Tổ Huệ Năng hỏi Thượng toạ Huệ Minh.
Nghe câu đó thượng toạ Minh ngơ ngác, trong một sát na dòng tâm ý thức bị khựng lại, bản thể hiện lộ lập tức. Những thí dụ như trong một ngàn bảy trăm công án đều là những câu vấn đáp của chư Tổ, chính là để đương cơ “khựng ngay dòng ý thức lại”. Mỗi vị đều có những câu khác nhau, tùy theo nhận xét của thầy mà đưa câu hỏi cho trò.
Người sau thấy những câu hỏi đáp đó đã giúp khai ngộ cho đệ tử, bèn thu thập lại, rồi đề ra cho người tới xin tu, cho họ một câu gọi là “một tắc công án” hoặc là thoại đầu để họ tự hỏi hoài, thành ra một nỗi thắc mắc nhân tạo, coi như dụng cụ để giúp người tu thiền có thể ngưng đọng tâm tư tạo được khối nghi, chờ một ngày kia có cơ duyên, khối nghi bùng vỡ là Ngộ.

Phatthichcatheo pc khome
Càng về sau, tâm tư con người càng phức tạp, biện luận càng nhiều. Người tu dùng công án nhà Thiền biến thành công cụ để bình luận văn thơ, đã không giúp cho dòng ý thức ngưng, còn khai triển ra đủ loại tư tưởng đối nghịch, biến thành trò chơi chữ nghĩa. Trong trường hợp đó công án không còn phục vụ sứ mạng tạo nghi tình, lại lấp bít con đường đi tới giác ngộ chân chính, và cũng bởi do Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ra đời thời điểm này, nghi chép tất cả các diệu thuật, công án của chư Tổ, khiến người tham thiền biết hết kỹ thuật của Tổ nên không phát khởi nghi tình. Do đó, chư Tổ mới bất đắc dĩ chế ra pháp “chiếu cố thoại đầu” hay còn gọi “khán thoại đầu” chiếu cố thoại đầu có từ đó
Như vậy chiếu cố thoại đầu là gì?Thoại là lời nói và đầu là đầu tiên. “Thoại đầu” là “phía trước, truớc khi có câu nói”. Nếu đã nói ra, dù chỉ một chữ, thì hết là “đầu”, mà chỉ còn là “thoại vĩ” là câu nói mất rồi. Cho nên, không có “câu thoại đầu” mà chỉ có “phía đầu của câu thoại” cho nên phải có chữ “chiếu cố”, chiếu cố thoại đầu, tức là “khán chiếu về phía trước của câu nói” là chưa có một ý niệm sanh ra.
Trước câu nói là gì? Dĩ nhiên câu nói (thoại) phải là hậu quả của một dòng ý thức trước khi tuôn ra thành lời. Nhưng dòng ý thức khi thành lời đó ở đâu? Là cái gì? Sự thắc mắc ấy chính là nghi tình. Nghi tình này không thành lời đó ở đâu? Là cái gì? Sự thắc mác ấy chính là nghi tình. Nghi tình này không có đáp án, không thể dùng tâm ý thức giải đáp huyên thuyên, dù có muồn, vì nó không có câu chuyện có đầu có đuôi như công án. Miên mật trong khối nghi này tức là hành giả đã vượt qua nhất niệm vô minh, đang ở trong vô thuỷ vô minh, tức là đang trên “đầu sào trăm thước”. sau đó sẽ là “bước thêm một bước: là nghi tình bùng vỡ, là buớc vào nơi mà chư tổ gọi là “bước đi đến địa kia” (gọi là “đất” là “bước”, chỉ là hình thức hoá cho dễ hiểu trong ngôn từ, thật ra thì tất cả chỉ là chuyển hoá tâm thức, không có cụ thể thành vật chất được nói ra đã là dùng tương đối, cách xa mất rồi). Bước này mau chậm tuỳ theo cơ duyên, có người ôm khối nghi tình nhiều năm, có ngừoi ngắn hơn. Cơ duyên khiến cho nghi tình bùng vỡ, là “bước thêm một bước” có thể là tiếng viên sỏi chạm vào cây tre, hoặc là tiếng vỡ của cái chén rơi, tiếng chuông chùa, câu nói vô nghĩa v v… cũng có thể ngộ được.
Chiếu Cố Thoại Đầu bắt đầu từ đời nhà Tống bên Trung Hoa, không rõ truyền qua Việt Nam vào năm nào. Sau năm 1975 có một vị Sư người Việt gốc Hoa truyền pháp môn này tại Việt Nam, rồi sau đó truyền qua Úc, Canada và Hoa Kỳ theo vết chân di cư của chính là Thiền Sư Thích Duy Lực cùng những Phật tử Việt Nam và Phật tử Việt gốc Hoa. Vị sư này là cố hoà thượng Thích Duy Lực.
Hiện nay tại Việt Nam pháp môn này đang được truyền dạy tại các chùa Phật Đà, Liên Hoà, Giác Nguyên (TP. HCM). Tam Bảo (Nha Mân, Sa Đéc) Liễu Quán. (Núi Dinh, Vũng Tàu). Riêng tại Hoa kỳ, Từ Ân Thiền Đường, ngôi thiền đường duy nhất hoằng truyền Tổ Sư Thiền ở hải ngoại được chính cố hoà thương Thích Duy Lực thiết lập và hiện tại được điều hành bởi một Ban Trị Sự Tông môn Tổ Sư Thiền, chư Tôn Thiền Đức và các cư sĩ môn người Việt và người Việt gốc Hoa đang duy trì Phát triển pháp môn này.


Thích Giác Tân
(Trích Kỷ Yếu lớp CCGS khóa IV)
Theo banhoangphaptw.com














Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét