Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2012

Muốn Khỏi Tam Tai Phải Gấp Niệm Phật



Vollbild anzeigen"Trái lại tạo ác nghiệp thì tuổi thọ giảm, đời sống chịu nhiều đau khổ, đây là luật nhân quả, mà cũng là pháp duyên sanh, nó tự nhiên như vậy..."


Tác giả: H.T. Thích Trí Minh

Tam Tai trong Tam Tạng Thánh giáo nói có hai thứ: 1- Đại tam tai, 2 - Tiểu tam tai, nhưng đại tam tai ít nói đến, mà thường nói là tiểu tam tai. Với đề mục muốn khỏi tam tai trong bài này là chính nói về tiểu tam tai.

Tiểu tam tai ở trong tiểu kiếp. Tiểu kiếp là một trong 20 tiểu kiếp của thời kỳ trụ. Thời kỳ trụ là một trong bốn thời kỳ (thành, trụ, hoại, không) của một đại kiếp. Mà 20 tiểu kiếp trong thời kỳ trụ hiện tại thuộc về tiểu kiếp thứ 9. Trong tiểu kiếp này bốn Đức Phật xuất thế. Thánh hiệu bốn Đức Phật ấy như sau:
Một là, Câu Lưu Tôn Phật. Khi Ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm đến sáu vạn tuổi. Nghĩa là từ 84.000 giảm còn sáu vạn.
Hai là, Câu Na Hàm Mâu Ni Phật. Khi ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm còn bốn vạn tuổi.
Ba là, Ca Diếp Phật. Khi Ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm còn hai vạn tuổi.
Bốn là, Thích Ca Mâu Ni Phật. Khi Ngài xuất thế thì tuổi thọ của nhân loại giảm đến 100 tuổi. Hiện nay Đức Bổn Sư Thích Ca của chúng ta nhập diệt đã 2540 năm, thì thọ mạng của nhân loại còn chỉ 75. Nhưng hiện tại cũng có những người sống đến 80 hay nhiều hơn nữa, đây chỉ là thiểu số mà thôi. Vì theo trong kinh nói, nhân loại ở châu Diêm Phù không nhất định về đời sống, nên có lắm người mới sanh thì chết, hoặc 2, 3, 4, 5… cho đến 30. 40, 50 tuổi… không nhất định, không như nhân loại ở Bắc Câu Lô Châu thọ số nhứt định 1000 tuổi, sự việc này không phải phần chính của bài này, xin gác qua.

Giờ đây xin nói vào phần chánh là tiểu tam tai. Trong tiểu kiếp thứ 9 này. Như trên đã nói, hiện tại thọ mạng của nhân loại còn 75 tuổi. Cứ 100 năm giảm 1 tuổi, giảm đến 30 tuổi thì có tai nạn đói khát phát sanh. Tai nạn này trải qua thời gian bảy năm bảy tháng bảy ngày. Trời không mưa một hạt, thế là quả đất khô thành bột, ngũ cốc hoàn toàn không trồng tỉa được, đến nổi không có một cọng cỏ, chúng ta thử tưởng tượng nhân loại làm sao sống còn? Vì lí do này trong một ngày một đêm bị chết đói vô số không thể nói được. Bởi nhân duyên này, nhân loại bấy giờ có những người sanh tâm cực nhàm chán với tội ác, thiện niệm phát sanh, do vậy mà tai nạn đói khát chấm dứt. Từ đây nhân loại giảm đến lúc 20 tuổi thì có tai tật dịch (bệnh dịch, bệnh thời khí) phát sanh, trải qua bảy tháng bảy ngày nạn dịch tiếp tục lan tràn nhân loại bị bệnh ấy hoành hành chết gần hết, cái thảm kịch này không sao tả xiết! Do đó có những người cực chán cho cái khổ bệnh dịch hành hung, nên khởi niệm lành thì nạn thời khí chấm dứt. Từ đây thọ số con người giảm đến 10 tuổi thì nạn đao binh nổi dậy, do ác tâm của nhân loại lúc này quá mãnh liệt, nên gặp nhau như kẻ thù địch lập tức giết hại, lại do nghiệp lực của ác nghiệp, khiến cho tất cả cỏ cây trên quả địa cầu đều thành gươm giáo đụng đến là chết. Tai nạn đao binh này trải qua bảy ngày đêm, nhân loại chết vô số. Bởi đó, có những người thấy vậy sanh tâm cực chán, trước kia thấy nhau như kẻ thù địch, giờ đây ngược lại vừa thấy nhau như mẹ hiền thương con thơ, có người ôm nhau hôn rồi tự nói chúng ta ngu si quá, ác độc quá, giết hại lẫn nhau gần hết, giờ đây phải thương nhau như cha mẹ thương con, để mà sống còn đừng giết hại nhau nữa, nên tai nạn đao binh đình chỉ, và ngang đây (nhân loại 10 tuổi) thì thời kỳ kiếp giảm đã hoàn toàn chấm dứt. Trở lại đến thời kỳ kiếp tăng, cũng cứ 100 năm tăng lên một tuổi, tăng mãi cho đến tám muôn bốn ngàn (84.000) tuổi.

Thuật giả đã y kinh mà lược thuật về tam tai như trên chúng ta thấy rõ. Chúng sanh trên thế giới tu tập pháp lành thì tuổi thọ tăng, lại đời sống an lành. Trái lại tạo ác nghiệp thì tuổi thọ giảm, đời sống chịu nhiều đau khổ, đây là luật nhân quả, mà cũng là pháp duyên sanh, nó tự nhiên như vậy. Không phải do một đấng thiêng liêng tạo hóa nào làm ra. Mà là do nghiệp chúng sanh chiêu cảm. Chúng ta biết rõ cái kịch khổ ấy rồi, thì phải làm sao để tránh hay thoát hẳn cái khổ ấy, chỉ trong hiện đời? Thuật giả xin thưa, muốn chắc chắn thoát hẳn khổ ấy, có một con đường duy nhất là thành kính tin lời Phật huyền ký.
Dưới đây thể văn chỉnh cú:
Thật vì sanh tử phát lòng Bồ Đề
Tin sâu nguyện thiết nhất tâm niệm Phật
Xem cái kịch khổ sanh tử luân hồi
Như lửa cháy đầu cùng với cái khổ
Của tiểu tam tai nó cũng gần bên
Ngày cũng niệm Phật đêm cũng niệm Phật
Đi đứng nằm ngồi không rời Phật hiệu
Thật hành như thế (1) cho đến thời kỳ
Vô thường nó đến Từ Phụ Di Đà
Cùng với Thánh chúng đồng đến trước mặt
Tiếp về Tây Phương ở trong lúc này
Đối với cái khổ sanh tử luân hồi
Vĩnh viễn thoát ly chừng ấy cái tên
Của tiểu tam tai không còn nghe đến
Huống là thật sự chịu cái khổ ấy
Chúng ta đã được về Cực Lạc rồi
Ở tại nơi đây, đủ mọi thắng duyên
Không các chướng ngại một mặt tiến tu
Chứng vô sanh nhẫn nương thuyền từ nguyện
Trở lại Ta Bà và cũng phân thân
Trần sát mười phương cứu vớt chúng sanh
Đồng về An Dưỡng cuối cùng Thuật giả
Một lòng thành kính hy vọng nhân loại
Khắp trên thế giới đây là nói chung
Toàn thể Phật tử trong giới xuất gia
Cũng như tại gia đây là nói riêng
Là người có trí đừng có lầm lẫn
Cho khổ là vui nói cho rõ hơn
Đừng cho sanh tử là cảnh an vui
Đến kỳ tam tai khổ không nói được
Dù cho gặp lúc nhằm thời kỳ tăng
Tuổi thọ nhân loại tám muôn bốn ngàn
Hưởng vui tự nhiên nhưng cũng vẫn còn
Trong vòng sanh tử!
Ghi chú (1)
Đây là nói những vị rảnh rỗi, trái lại những vị bận rộn vì việc sanh nhai, cũng gắng nhín chút thì giờ mỗi ngày hai thời, tối trước khi đi ngủ và sáng mai khi mới thức dậy lạy Phật niệm Phật phát nguyện hồi hướng trong 30 phút nếu quá bận thì khi mới thức dậy tu theo pháp thập niệm rất gọn cũng được vãng sanh, chỉ cần dụng tâm chí thành thì có kết quả vãng sanh. Dù là phẩm thấp cũng thoát luân hồi, xin cố gắng. Đừng để trôi qua đời sống con người. Một khi sa vào ác đạo khổ không nói được chừng ấy ăn năn cũng chẳng ích gì.

 
Nỗi đớn đau của một người Nhật sau thảm hoạ sóng thần 03.2011 (Ảnh mang tínhminh hoạ)
 
Kính thưa quý vị! Trong tam tạng Thánh giáo, Đức Phật dạy về việc tu hành có 84.000 pháp môn, nhưng tóm tắt lại chia ra làm hai loại: Một là tự lực, hai là tha lực.
Một là về tự lực, phải trãi qua ba cái vô số kiếp mới chứng Phật quả, vả lại ở trong ba vô số kiếp ấy, khi thăng khi trầm chứ không phải một mặt đi thẳng tới, vì thế trong kinh luận có khẳng định sự tu hành tiến được một bước, thối lùi vạn bước.
Hai là về tha lực, ý nghĩa của môn tha lực này như trong thể văn chỉnh cú đã nói, nhưng đây là việc thuyết minh về việc hành trì. Ngoài ra như trong kinh luận tán dương về đặc điểm của tha lực thường dùng, ví dụ như người đi thuyền gặp nước xuôi lại trương buồm theo chiều gió thuận, người què mà được ngồi trên xe kim luân của Thánh Vương, con trùng ở trong cây tre 100 đốt mà đục ngang để ra khỏi v. v… Tu theo pháp môn niệm Phật chóng thoát sanh tử luân hồi cũng tương tự như vậy.
Ở đây Thuật giả thành kính nêu lên hai pháp môn tự lực và tha lực để quý vị tự chọn lựa và khỏi nghĩ rằng khuyên người chuyên tu theo pháp môn Tịnh Độ là thuộc về thiên kiến.
HAI CÂU KINH VĂN
Phiên âm:
Quá khứ sanh tử Thạch kiếp nan cùng
Vị lai luân hồi Giới thành mạt tận.
Dịch nghĩa:
Sự sanh tử thời quá khứ dùng Thạch kiếp
Thí dụ cũng không cùng
Việc luân hồi thuở vị lai đem Giới thành
Thí dụ vẫn chẳng hết (Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp).
Lược thích: Chia làm ba đoạn.
1- Chữ kiếp
2- Hai câu Kinh văn
3- Tìm phương thoát khổ
1/ Chữ kiếp: là tiếng nói tắt từ kiếp ba của tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là phân biệt thời tiết, chính là chỉ cho thời tiết quá lâu xa rộng lớn ( trường huyễn quảng đại) không thể dùng năm tháng ngày giờ thông thường trong thế gian mà tính biết cho được nên cũng gọi là đại thời.
2/ Lược thích hai câu kinh văn: Hai câu Kinh văn đã dịch nghĩa như trên, ai đọc qua cũng hiểu không cần giải thích. Tuy nhiên cũng nên nói sơ lược ý nghĩa, nghĩa là hai câu Kinh văn ấy chính là từ kim khẩu của Bổn Sư Thích Tôn tuyên thuyết. Đức Phật Ngài dùng Phật nhãn thấy rõ sự sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh về thời gian quá khứ thì vô thỉ vô thỉ, về thời gian vị lai thì vô chung vô chung, tức là không có đầu mối cũng không có kết cuộc. Nên Đức Phật Ngài quá thương xót chúng sanh, sanh tử tử sanh ở trong cảnh luân hồi vô biên bất tận như thế, mà vẫn không hay không biết. Vì lí do ấy nên Ngài dùng hai thí dụ: Thạch Kiếp, Giới Thành, để chúng sanh nương theo đó mà biết tự mình chìm đắm trong sanh tử đã quá lâu xa, phải mau tỉnh ngộ tầm đường giải thoát.

 
Cảnh đổ nát do sóng thần gây nên tại Nhật  03.2011 (Ảnh mang minh hoạ)
 
Thạch kiếp: Nói cho đủ là Bàn thạch cùng với Giới tử thành mà thí dụ cho ý nghĩa của kiếp sanh tử luân hồi quá lâu xa. Giờ đây trước tiên giải thích Từ Bàn thạch kiếp.
Bàn thạch: tức là chỉ cho tản đá rất to, nghĩa là dụ như tản đá vuông vức 40 dặm, có một trượng phu nam tử trường thọ vô biên vô số (đây là thí dụ chứ không ai thọ số lâu dài như vậy) cứ mỗi một trăm năm đến nơi tảng đá ấy dùng chiếc thiên y rất mềm mịn phất lên tảng đá ( cũng có chỗ gọi là núi đá) lớn nói trên một cái, cứ làm mãi như vậy chừng nào tảng đá mòn hết, nhưng kiếp sanh tử của chúng sanh cũng không cùng. Nên trong kinh văn nói Thạch kiếp nan cùng.
Giới tử thành kiếp: Như trên đã nói tản đá vuông vức 40 dặm, giờ đây Giới tử thành kiếp cũng như thế. Nghĩa là có một thành quách rộng lớn 40 dặm trong ấy hoàn toàn không chứa đựng một vật gì ngoài hạt cải ra, dĩ nhiên là trong đại thành ấy chỉ chứa toàn là hạt cải (giới tử). Cũng như trên, nghĩa là cứ mỗi một trăm năm có một nam tử trượng phu trường thọ đến nơi đại thành chứa hạt cải lấy đi một hạt, chừng nào hạt cải trong thành ấy hết, nhưng kiếp luân hồi của chúng sanh vẫn chưa hết. Nên trong kinh văn gọi là Giới thành mạt tận.
- Như trên đã lược thích ý nghĩa hai câu kinh văn thì chúng ta thấy rõ sự sanh tử luân hồi của chúng sanh ngoài đức Phật ra không một ai thấy được tường tận như vậy. Chúng ta cũng nên biết Phật dùng hai thí dụ ấy để chỉ rõ sự sanh tử luân hồi trường viễn không thể gì nói cho cùng. Nhưng Đức Phật đã nhấn mạnh “Thạch kiếp nan cùng”- “Giới thành mạt tận” là cốt để cho chúng ta thấy rõ sự sanh tử luân hồi theo tỷ dụ Đức Phật đã dạy lâu xa như thế cũng chưa chấm dứt. Nghĩa là phỏng sử có bàn thạch 40 dặm, cùng với Giới tử thành 40 dặm, lại cũng có trượng phu nam tử trường thọ thực hành công việc như trên, chừng nào tản đá mòn và hạt cải trong đại thành kia hết. Nhưng kiếp sanh tử luân hồi chúng sanh cũng vô cùng bất tận (đây là Thạch kiếp Giới tử thành thứ hai).
- Chúng ta cũng nên hiểu thâm ý của Đức Phật dùng thí dụ để nói lên sự sanh tử luân hồi của chúng sanh trong tam giới vô cùng bất tận như thế để làm gì? Đương nhiên là muốn cho chúng ta đối với luân hồi sanh tử nên sanh tâm ghê sợ mong cầu thoát ly.
Trái lại dù nghe thấy lời Phật dạy mà vẫn vui ở trong sanh tử không một niệm chán nhàm, sợ hãi thì thực có thể gọi là người sắt đá, nếu là người huyết nhục thì ai cũng phải rùng mình rởn óc. Tại sao thế? Vì chúng sanh luân hồi trong tam giới hưởng vui nhân thiên trong chốc lát, thọ khổ trong tam đồ quá lâu dài. Sự việc này muốn biết rõ thì nên xem trong các kinh luận như kinh Chánh Pháp Niệm Xứ, luận Câu Xá v. v…
Tuy nhiên ở đây xin nói lược: Như trong Luận Câu Xá thuyết minh về niên số của cõi người, cõi trời và địa ngục như sau:
Một ngày một đêm ở cõi trời Tứ Thiên Vương đem so sánh với cảnh nhân gian này trải qua 50 năm (nửa thế kỷ).
Cõi Trời Đao Lợi thứ hai một ngày một đêm, ở nhân gian trải qua một trăm năm (một thế kỷ).
Cứ như thế nhân lên đến cõi trời thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại Thiên, thì một ngày một đêm cõi trời này, ở cõi nhân gian đã tri qua 16 thế kỷ, mà thọ mạng nhất định của hàng nhân thiên ở cõi Trời thứ sáu này một vạn sáu nghìn (16.000) năm. Đem thọ số trọn đời của người cõi trời thứ sáu nàylà một vạn sáu nghìn năm mà so sánh với Viêm-Nhiệt địa ngục thứ sáu trong 8 đại địa ngục thì chỉ là một ngày một đêm của tội nhân trong địa ngục ấy.
Nói sơ lược như trên để thấy rõ chúng sanh trong cảnh luân hồi hưởng vui ở cõi nhân thiên chỉ là chốc lát, thọ kịch khổ trong địa ngục quá lâu dài. Hơn nữa trong các cõi Trời dù được hưởng thọ vui ngũ dục thắng dịu nhưng cũng còn cái khổ ngũ suy tướng hiện. Trong cõi người dù nói vui ấy chẳng qua là tương đối với tam ác đạo. Thực ra vui ít khổ nhiều, một điển hình rất rõ rệt, chúng ta vào trong các bệnh viện và các trại lao, trại cùi sẽ thấy cái kịch khổ trong ấy dường như cảnh địa ngục ngạ quỷ, thế có gì gọi là vui! Đây là chưa nói đến cảnh lao ngục của những tội nhân bị hành hình…
3-Tìm phương thoát khổ: Chúng ta vì si mê nên không thấy rõ sanh tử luân hồi trong tam giới, do đó từ vô lượng kiếp đến nay đã trải qua sanh tử không biết bao nhiêu lần (điều này nên xem lại hai câu kinh văn Đức Phật dạy trên) mà cứ sống say chết ngủ, khác nào những con phù du trên mặt nước mai sanh chiều chết, mà vẫn cho là an vui tự tại. Hôm nay có chút phước lành được làm thân người, dù không có phước duyên gặp Phật xuất thế, nhưng còn gặp được Chánh Pháp của Phật để lại, do đó mà được biết rõ lời vàng ngọc của Ngài đinh ninh dạy bảo.
Về sự sanh tử luân hồi quá lâu xa như trên đã diễn tả. Vậy chúng ta phải mau thức tỉnh tìm phương thoát khổ, nhưng muốn được thoát khỏi cái khổ luân hồi trong ba cõi cũng chẳng phải là việc dễ dàng, vì cần phải đoạn hai thứ phiền não Kiến Tư, mà Kiến Hoặc là thứ thô thiển nhậm lẹ dễ đoạn, nhưng đoạn được nó cũng rất khó khăn, khác nào ngăn chặn dòng nước từ 40 dặm chảy xuống, Kiến Hoặc mà còn khó đoạn dường ấy, huống chi Tư Hoặc là một thứ vi tế lại ám độn khó đoạn gấp trăm nghìn lần. Vì thế Đức Bổn Sư Thích Tôn xuất hiện trong thế gian này, tùy cơ thuyết pháp 49 năm, giảng kinh hơn 300 hội. Pháp môn nhiều đến tám muôn bốn nghìn (84. 000) trong ấy chỉ có pháp môn niệm Phật (Tịnh Độ) là một pháp tối thắng độc tôn. Tại sao vậy? Vì pháp môn này có hiệu lực làm cho tất cả chúng sanh mau thoát ly sanh tử luân hồi và thẳng tiến đến Phật quả. Vả lại luận về căn cơ thì gồm thu nhiếp cả ba căn: Thượng, Trung, Hạ.
Luận về phần hạ thủ công phu thì dễ thực hành, mà thành công cao nên nếu người nào có đủ lòng tin sâu, chí nguyện thiết, nhứt tâm niệm Phật thì chỉ trong một đời này bảo đảm 100% được thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi vô cùng bất tận như đã nói trên. Cuối cùng tôi rất mong những người thiện căn vì lòng mong muốn thoát ly sanh tử luân hồi trong tam giới nên phát tâm Bồ Đề khởi niệm tin sâu nguyện thiết nhất tâm trì thánh hiệu của Đức Từ Phụ A Di Đà, cầu vãng sanh Cực Lạc, trên cầu thành Phật quả, dưới cứu độ chúng sanh, thì nơi tự mình chẳng những không phụ được thân này, vì có được thân người này rất khó như đất dính trong móng tay, mà cũng đền đáp thâm ân của Bổn Sư Thích Tôn và chư Phật trong sáu phương (nói sáu phương tức gồm đủ mười phương) đồng đinh ninh dạy bảo khuyến hóa. Chúng ta và tất cả chúng sanh phát nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Toàn bài văn này tôi nương theo ý của lời Phật, Bồ Tát, chư Tổ thuật lại không có một lời nào thuộc về tự ý của kẻ phàm phu si ám này. Vậy mong quý vị đừng vì người hèn mà bỏ qua diệu Pháp.
Trích: Oai Đức Câu Niệm Phật
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản
Phật Lịch 2543 – 1999
Người gửi: Kiệt Đào

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét