Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

GIỮ GÌN GIA BẢO



Hoặc kẻ bên ngoài thì buông lung phóng túng, hạnh lại thô tháo, có ai nhắc nhở cho thì bảo: "Tôi tự giữ bên trong". Thật lầm to! Nếu bên trong đã được thanh tịnh thì cớ gì lại hiện tướng thô tháo? Trừ một vài trường hợp Bồ Tát hiện thân đặc biệt, vì cảm hóa một số người nào đó, còn ngoài ra e rằng chúng ta bị ma mê hoặc mà không hay. Dù quả thật chúng ta có được trong lòng như "Thánh" chăng nữa, xong chung quanh chúng ta bao nhiêu người họ còn đang sống với phàm tình, đâu hiểu thấu được bên trong chúng ta thế nào. Do vậy, thấy hành động chúng ta qua thô, họ đâm ra hủy báng chánh pháp, chê bai Tam Bảo; vô tình chúng ta đưa họ vào con đường tội lỗi càng sâu. Như vậy chúng ta cũng chưa tròn được bản nguyện tự lợi, lợi tha.


HT Thích Thanh Từ

Một hôm Phật bảo các Thầy Tỳ Kheo rằng: Này các Tỳ Kheo! Trong hàng đệ tử của ta có chia làm bốn hạng người. Thế nào là bốn?

  1. Hạng người ngoài chín trong sống.
  2. Hạng người ngoài sống trong chín
  3. Hạng người ngoài sống trong sống
  4. Hạng người ngoài chín trong chín.
- Thế nào là hạng người ngoài chín trong sống?
Tức là những kẻ tu hành bên ngoài thấy thanh tịnh nghiêm trang mà bên trong thì buông lung, tư tưởng không thể điều phục.
- Thế nào là hạng người ngoài sống trong chín?
Tức là những kẻ bên trong thanh tịnh nhưng ngoài thì hạnh thô tháo phóng túng.
- Thế nào là người ngoài sống trong sống?
Tức là những kẻ trong ngoài đều không thanh tịnh.
- Thế nào là người ngoài chín trong chín?
Tức là những kẻ trong ngoài đều thanh tịnh.
Này các Tỳ Kheo! Chính hạng người sau cùng này mới là hạng thanh tịnh chơn thật, xứng đáng là người giữ gìn gia bảo của Như Lai.
 
Ðọc qua bốn hạng người trên, chúng ta mỗi người hãy tự kiểm điểm lại xem mình thuộc hạng người nào?
Chúng ta có phải là kẻ chỉ lo trau giồi cái hình tướng bề ngoài cho trang nghiêm thanh tịnh ra dáng tu hành tinh tiến lắm, nhưng trong lòng để rơm rác đầy dẫy, chất chứa bao nhiêu là tư tưởng xấu xa đen tối mà không hề có phút giây chiếu soi trở lại, điều phục lấy mình. Thật hổ thẹn xiết bao! Có biết đâu dối người thì đặng nhưng dối mình thì không thể được. Một khi nhân duyên chín mùi, chiếc áo đẹp bên ngoài rã nát thì những gì chứa ẩn bên trong lâu nay nó bày hiện ra cả, nhân nào quả nấy, chúng ta tự thọ khổ, che đậy được đâu? Ngoài chín mà trong sống không thể dùng được. 

Hoặc kẻ bên ngoài thì buông lung phóng túng, hạnh lại thô tháo, có ai nhắc nhở cho thì bảo: "Tôi tự giữ bên trong". Thật lầm to! Nếu bên trong đã được thanh tịnh thì cớ gì lại hiện tướng thô tháo? Trừ một vài trường hợp Bồ Tát hiện thân đặc biệt, vì cảm hóa một số người nào đó, còn ngoài ra e rằng chúng ta bị ma mê hoặc mà không hay. Dù quả thật chúng ta có được trong lòng như "Thánh" chăng nữa, xong chung quanh chúng ta bao nhiêu người họ còn đang sống với phàm tình, đâu hiểu thấu được bên trong chúng ta thế nào. Do vậy, thấy hành động chúng ta qua thô, họ đâm ra hủy báng chánh pháp, chê bai Tam Bảo; vô tình chúng ta đưa họ vào con đường tội lỗi càng sâu. Như vậy chúng ta cũng chưa tròn được bản nguyện tự lợi, lợi tha. Cho nên dù chúng ta có được trong lòng vô sự chăng nữa, nhưng vì lợi tha cần phải cẩn thận oai nghi không thể thô xuất. Ðừng để trong chín mà ngoài sống.
Còn kẻ cả trong lẫn ngoài đều chẳng thanh tịnh thì sao? Hy vọng chúng ta không thuộc hạng này! 

Hạng sau cùng, trong tâm sáng ngời với trí tuệ. Ngoài thân giới hạnh tinh nghiêm không chỗ khiếm khuyết gọi là "Như ngọc lưu ly ngậm ánh trăng" suốt cả trong ngoài. Quả thật một bậc trí và hạnh tròn đầy, không để cho thế gian tim thấy lỗi. Ðược như vậy thì khỏi phải cầu Như Lai thọ ký nhưng Thế Tôn đã tán thán lắm rồi! Vậy chúng ta có phải là hạng này chăng?
Xét kỹ lại, bốn hạng trên tuy nói riêng biệt, song nhìn lại trong mỗi chúng ta cũng tự có đủ cả, đâu lạ gì? Lúc ngoài thân thanh tịnh mà trong tâm thô động là hạng thứ nhất chứ gì? Lúc ngoài thân tuy thô động mà trong tâm giữ gìn được thanh tịnh là hạng thứ hai. Lúc cả trong ngoài đều thô động là ở hạng thứ ba. Lúc trong ngoài đều thanh tịnh là ở hạng thứ tư. Ba hạng trước, hai hạng 1 và 3 thì thiếu thật tu, hạng hai có tu nhưng còn khuyết điểm, chỉ hạng thứ tư mới là chơn thật tròn đầy. 

Tóm lại, nếu chúng ta chưa hẳn như hạng thứ tư này thì phải cố gắng thêm lên cho được khế hiệp, sau này sẽ là bậc lợi lạc khắp nhân thiên.

Vạn Sự, Nhẫn Là Quý


Các bạn không phải là lúc nào cũng ngồi Thiền, cũng chẳng phải là luôn luôn lạy Phật, thế mà khi hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì lại không có thì giờ tham gia (nhưng lại có thì giờ để nói chuyện thị phi), hoặc là đã đến giờ hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối rồi mà cứ lần khân chần chờ, các bạn trễ, tôi trễ, và người khác cũng trễ nữa, thế thì các khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối để cho ai làm chứ? Người tu hành mà không làm lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì làm gì?

 
Bí quyết của người tu hành là nên ăn ít. Vì sao? Vì ăn ít thì bớt sanh dục niệm. Dục niệm ít thì có thể biết đủ (tri túc). Biết đủ thì thường xuyên được an lạc. Luôn luôn an lạc thì không có phiền não. Không có phiền não thì Bồ-đề nảy sanh. Bồ-đề nảy sanh thì được giải thoát. Ðạt được sự giải thoát tức là có thể "nhiệm vận tự tại, sanh tử tự tại, trí huệ tự tại"-  tóm lại là hoàn toàn tự tại. Ðó là những chặng đường mà người tu hành phải trải qua; mọi người hãy cùng nhau gắng sức!

Người tu hành cần phải nhẫn nại, bất luận cảnh giới thử thách nào xảy đến cho mình thì cũng phải dùng lòng nhẫn nại mà nhịn nhục, nghiến chặt răng mà chịu đựng; lúc đã vượt qua "cửa ải" được rồi thì "gió êm sóng lặng," tự nhiên sẽ được yên ổn. Khi làm việc, nếu có những việc mình không muốn làm thì cũng nên nhẫn nại mà làm, lâu dần sẽ quen đi, rồi trở thành tự nhiên. Nói tóm lại, bất luận làm công việc gì chúng ta cũng đều nên làm cho đàng hoàng, có lương tâm; chớ nên lười biếng, trốn tránh công việc cho nhàn thân, hoặc làm cẩu thả qua loa cho xong chuyện. Nếu có ý tưởng "làm Hòa Thượng một ngày thì đánh chuông một ngày," tức là trái ngược với Ðạo; hạng người này chẳng qua là "dựa vào Phật để có áo mặc, nương theo Phật để kiếm cơm ăn," sống lây lất qua ngày tháng, chắc chắn chẳng có triển vọng gì cả!

Tôi dùng hai chữ "nhẫn nại" làm phương châm cho đời mình - bất luận trong hoàn cảnh nào cũng dứt khoát không chịu đầu hàng, cương quyết nhẫn chịu hết thảy bằng cả thân lẫn tâm. Khi còn ở tại quê nhà Ðông Bắc, tôi đã quen "chịu nóng chịu lạnh." Vào những ngày "tam cửu"2 (thời kỳ lạnh nhất trong năm), tôi không mang giày mang vớ gì cả, cứ để chân trần mà đi trong tiết trời giá rét như cắt, khiến chân bị lạnh cóng đến đau buốt - nhưng tôi vẫn cố gắng chịu đựng, hễ nhẫn nại được thì không còn thấy đau nữa! Còn trong mấy hôm "tam phục"3 (thời kỳ nóng nực nhất trong năm) thì khí trời nực nội đến nỗi đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm; bước đi mà cứ thấy trước mắt một màn tối đen, tưởng chừng như trời đất đang quay cuồng đảo lộn vậy. Nhiều người cảm thấy nóng bức đến lả người, nhưng tôi nhận thấy cũng không đến nỗi nào, chỉ cần ngồi nghỉ một lát là khỏe ngay. Tôi lấy hai chữ "nhẫn nại" làm Pháp-bảo để khắc phục mọi khó khăn - chịu lạnh chịu nóng, dầm mưa dãi nắng, nhịn đói nhịn khát; tôi nhẫn nại chịu đựng tất cả, nhất quyết không "kéo cờ trắng" đầu hàng.

Sau khi xuất gia, tôi chuyên tâm tu Pháp Môn Nhẫn Nhục. Nếu có người mắng tôi ư? Thì tôi cứ như chẳng nghe thấy gì cả, hoặc coi như mình đang nghe nhạc vậy, và tự nhiên được bình an vô sự! Nếu có người đánh tôi ư? Tôi tuyệt đối không đánh trả, mà chỉ đón nhận với thái độ bình tĩnh, ôn hòa! Tôi cũng kiên nhẫn hành trì các khóa lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối - sáng sớm tinh mơ, khi gần đến giờ phải lên Chánh Ðiện, dù đang ngon giấc mà nghe tiếng mõ báo hiệu là tôi lập tức vùng dậy. Súc miệng rửa mặt, chuẩn bị xong xuôi là tôi lên Chánh điện chờ sẵn; bao giờ tôi cũng đến sớm năm phút, không một lần trễ nải!

Từ khi xuất gia đến nay, tôi luôn luôn dùng lòng nhẫn nại để làm việc. Khi tôi đến những nơi khác để tham cứu học hỏi, bất luận là hành lễ Công Phu Khuya, Công Phu Tối, giảng Kinh thuyết Pháp, nghe Kinh nghe Pháp, hay Cúng Ngọ, tôi đều tới sớm hơn giờ giấc ấn định, chưa bao giờ chậm trễ một chút! Hôm nay tôi mang sự việc trước kia của mình ra kể cho các bạn nghe tức là "hiện thân thuyết Pháp" vậy!

Nếu muốn tu hành một cách chân chánh, thì các bạn không được lười biếng, khi làm việc thì phải tích cực, hăng hái, và không được thiếu lòng nhẫn nại. Dẫu có những điều không thể nhẫn nhịn được thì cũng phải nhẫn nhịn, và nếu có những việc không thể chịu đựng nổi thì cũng phải chịu đựng. Nhẫn nhịn và chịu đựng tất cả - đó là kim chỉ nam của người tu hành. Ðặc biệt là trong thời kỳ còn đang học hỏi, rèn luyện thì các bạn càng phải cố gắng nhẫn nhịn và chịu đựng hơn nữa; cho dù thật tình là chẳng thể nào nhẫn nhịn được nữa thì cũng vẫn phải ráng dằn lòng mà nhẫn nhịn! Có câu:
Nhẫn phiến khắc, phong bình lãng tĩnh,
Thối nhất bộ, hải khoát thiên không.
(Nhẫn một chút, gió êm sóng lặng,
Lùi một bước, biển rộng trời cao.)
Các bạn không được tùy tiện nổi nóng; phải biết rằng:
Vô minh hỏa năng thiêu hủy công đức lâm!
(Lửa vô minh có thể thiêu rụi rừng công đức!)
Ðó là một câu danh ngôn rất chí lý và cũng là một nhận định đầy kinh nghiệm. Mọi người hãy nhớ lấy, hãy khắc ghi trong lòng! Phải thận trọng, chớ nên nổi giận!
Các bạn không nên tùy tiện nổi nóng, cho rằng như vầy là không đúng, như thế là không phải, hoặc trông thấy cái gì cũng lấy làm gai mắt, khó chịu. Ðành rằng ở đời có nhiều việc không như ý mình mong muốn, thế nhưng, các bạn hãy "lùi một bước" mà tự nhắc nhở: "Phải nhẫn nhịn! Mình phải nhẫn nhịn!" Nếu nhẫn nhịn được thì muôn sự đều êm đẹp, bao nhiêu rắc rối phiền phức đều không còn nữa!

Chúng ta, những người tu hành, cần phải làm mọi công việc một cách đàng hoàng, chu đáo, không được lười biếng, không được phóng túng, buông lung. Mọi người phải nghiêm túc tuân theo quy củ của đạo tràng; chớ nên nói rằng: "Hằng ngày tôi đều có tới nghe giảng Kinh, không hề vắng mặt, thì những việc khác cứ qua loa, đại khái thôi cũng được!" Tư tưởng này quả thật không thể nào chấp nhận được! Dù là Cúng Ngọ, Công Phu Khuya, Công Phu Tối hay là Pháp Hội, thì các bạn đều nên đến Chánh Ðiện sớm một chút để chờ tới giờ hành lễ, bởi như thế thì quả báo đến với các bạn trong tương lai mới được viên mãn. Bằng không, nếu thời khóa nào các bạn cũng trễ nãi, thì sau này các bạn có thể bị vuột mất cơ hội khai ngộ. Phàm nếu làm việc gì cũng đi sau đến trễ, thì công đức sẽ không được viên mãn.
Chúng ta, những người tu hành, đừng tự lý sự với chính mình hoặc tự làm luật sư biện hộ cho mình. Nên có câu rằng:
Như thị nhân, như thị quả.
(Nhân nào thì quả nấy.)
Hễ trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác nhân thì gặp ác báo - đó là định luật "thiên kinh địa nghĩa," là định luật muôn thuở của trời đất. Nếu trồng cái nhân trọn vẹn thì khi kết trái sẽ được quả trọn vẹn, trồng cái nhân nửa chừng hay lỡ dở thì sẽ sanh ra quả nửa chừng hay lỡ dở. Mọi người cần phải thật sự thấu suốt điểm này, chớ nên thờ ơ, xem như gió thoảng qua tai!
(Giảng ngày 01 tháng 5 năm 1983)

Sống Ở Ðạo Tràng Phải "Tùy Chúng"

Quy củ của đạo tràng là nếu có công việc thì mọi người cùng làm chung với nhau. Ăn thì cùng nhau ăn, làm công quả thì cùng nhau làm. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp ngoại lệ, ví dụ như những người thật sự biết dụng công ngồi Thiền, tịnh tọa hằng ngày, thì họ có thể bớt làm các công việc khác. Tại sao? Bởi vì họ dụng công như thế tức là tu hành rồi! Và niệm Phật hay lạy Phật thì cũng đều là dụng công tu hành cả. Nếu quả có tình trạng đặc thù như thế, thì đó là trường hợp cá biệt, chúng ta khỏi phải đề cập tới. Nếu không thuộc trường hợp đặc biệt, thì tuyệt đối không được lười biếng, không được trốn việc cho khỏe thân, mà phải đồng loạt tuân theo quy củ, nề nếp của đạo tràng.

Các bạn không phải là lúc nào cũng ngồi Thiền, cũng chẳng phải là luôn luôn lạy Phật, thế mà khi hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì lại không có thì giờ tham gia (nhưng lại có thì giờ để nói chuyện thị phi), hoặc là đã đến giờ hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối rồi mà cứ lần khân chần chờ, các bạn trễ, tôi trễ, và người khác cũng trễ nữa, thế thì các khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối để cho ai làm chứ? Người tu hành mà không làm lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì làm gì?

Trong đạo tràng, các thời khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối là việc chung của Thường Trụ, là công việc mà không một ai được trốn tránh. Không làm lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối tức là coi thường đạo tràng, mà coi thường đạo tràng tức là coi thường Phật, và coi thường Phật thì cũng như coi thường đại chúng. Nếu coi thường đại chúng, thì không thể "cộng trụ," không thể cùng sống chung; và như thế tức là không thể cùng tu hành với mọi người được nữa!
Ngoại trừ thời gian hành trì Công Phu Khuya và Công Phu Tối, thời giờ còn lại là tùy ý mỗi người muốn làm gì thì làm. Ai muốn phiên dịch kinh điển thì phiên dịch kinh điển, ai muốn đọc sách Phật thì đọc sách Phật, ai muốn nói chuyện thị phi thì đi nói chuyện thị phi, ai muốn nghe chuyện thị phi thì cứ việc nghe chuyện thị phi, chẳng có ai can thiệp hoặc ngăn cấm các vị cả. Tuy nhiên, đến giờ hành lễ Công Phu Khuya và Công Phu Tối thì các bạn nhất định phải tham gia, bởi vì Công Phu Khuya và Công Phu Tối là pháp môn tất yếu, là thời khóa bắt buộc phải theo của đạo tràng.

Người tu Ðạo cần phải bảo vệ, gìn giữ và tôn trọng đạo tràng, và phải tuân theo mọi quy củ của đạo tràng. Hễ nghe tiếng chuông trống gióng lên báo hiệu sắp đến giờ hành lễ thì mọi người phải lập tức bỏ hết công việc đang làm dở để chuẩn bị lên Chánh Ðiện, không được chậm trễ. Ai nấy cần phải có tinh thần "tranh tiên khủng hậu" luôn luôn cố gắng tới trước, không được bỏ lại đằng sau. Nếu các bạn cho rằng các thời khóa Công Phu Khuya và Công Phu Tối không quan trọng, chỉ miễn cưỡng tham gia, thì quả thật là các bạn ở trong đạo tràng để chờ ngày xuống địa ngục! Có câu:
Ðịa ngục môn tiền Tăng Ðạo đa.
(Trước cửa địa ngục các thầy, ông Ðạo rất nhiều.)

Bất luận là người xuất gia hay là kẻ tại gia, một khi đã sống trong đạo tràng tất phải biết tùy hỷ công đức, nghiêm chỉnh làm Phật sự; chứ không thể a dua hoặc hùa theo kẻ khác, bởi như vậy thì thật không có triển vọng!
HT Tuyên Hoá

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2014

HƯƠNG GIỚI HẠNH


Đó là, này A-nan! Có loại hương này mà lại bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay ngược gió thuận gió. Các mùi hương có trên thế gian, thì ba loại hương này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì bì kịp. Ví như do bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ, mà đề hồ này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì sánh kịp. Đây cũng như thế, các mùi hương có trong thế gian, ba loại này tối thắng, tối thượng không thể bì kịp.


Quảng Tánh



Trong sự nghiệp tu học theo giáo pháp của Thế Tôn, dù có vô lượng căn cơ và pháp môn sai khác nhưng tựu trung vẫn không ngoài mục tiêu căn bản là thành tựu giới-định-tuệ. Có thể nói, tu tập theo Phật pháp mà thiếu vắng ba môn vô lậu này thì chắc chắn hành giả đã chệch hướng Chánh pháp, dù cho họ có nhân danh bất cứ pháp môn hay dòng truyền thừa nào. 

Nền tảng của ba môn học vô lậu ấy chính là giới hạnh hay đức hạnh. Nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ là biểu thức căn bản giúp chúng ta thấy rõ tầm mức quan trọng của giới đức. Vì lẽ ấy, Thế Tôn luôn ca ngợi người giữ giới, tôn vinh người đức hạnh. Người có giới hạnh cao khiết thì trời người kính trọng, tiếng tốt đồn xa. Không như hương các loài hoa chỉ xuôi theo chiều gió, hương đức hạnh thì không có gì chướng ngại, luôn tỏa ngát mười phương.


“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc.

Bấy giờ Tôn giả A-nan ở chỗ vắng vẻ, liền nghĩ rằng: 'Ở thế gian, có loại hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận gió, vừa bay cả thuận gió, ngược gió chăng?'.

Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng lên đến chỗ Thế Tôn cúi lạy rồi ngồi một bên.

Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Con ở chỗ vắng vẻ chợt nghĩ rằng: 'Thế gian có mùi hương nào vừa bay ngược gió, vừa bay thuận gió, vừa bay cả thuận gió, ngược gió chăng?'.

Thế Tôn bảo A-nan:

- Có loại diệu hương này mà mùi thơm cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A-nan bạch Thế Tôn:

- Đấy là mùi hương nào mà hương cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược?

Thế Tôn bảo:

- Có hương này mà sức của mùi thơm cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A-nan bạch Phật:

- Đây là hương nào, cũng thơm ngược gió, cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả trong gió thuận và ngược?

Thế Tôn bảo:

- Ba loại hương này cũng bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay cả trong gió thuận và ngược.

A-nan bạch Thế Tôn:

- Ba loại nào?

Thế Tôn bảo:

- Giới hương, văn hương và thí hương. Đó là, này A-nan! Có loại hương này mà lại bay ngược gió, cũng bay thuận gió, cũng bay ngược gió thuận gió. Các mùi hương có trên thế gian, thì ba loại hương này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì bì kịp. Ví như do bò có sữa, do sữa có lạc, do lạc có tô, do tô có đề hồ, mà đề hồ này tối thắng, tối thượng, không gì bằng, không gì sánh kịp. Đây cũng như thế, các mùi hương có trong thế gian, ba loại này tối thắng, tối thượng không thể bì kịp.

Thế Tôn liền nói kệ:

Mộc mật và chiên-đàn,

Ưu-bát và các hương,

Và các thứ mùi hương,

Giới hương là hơn hết.

Giới này làm thành tựu,

Vô dục, không chỗ nhiễm,

Đẳng trí mà giải thoát,

Chỗ đi mà chẳng hay.

Hương này tuy là diệu,

Và các hương đàn, mật,

Hương giới là vi diệu,

Mười phương thảy đều nghe.

Chiên đàn tuy có hương,

Ưu Bát và hương khác,

Trong các thứ hương này,

Văn hương tối đệ nhất.

Chiên-đàn tuy có hương,

Ưu-bát và hương khác,

Trong các thứ hương này,

Thí hương tối đệ nhất.

Đó là ba loại hương này cũng thơm ngược gió, cũng thơm thuận gió, cũng thơm cả thuận gió ngược gió. Thế nên, A-nan, nên cầu phương tiện thành tựu ba loại hương này. Như vậy, A-nan, nên học điều này!

Bấy giờ A-nan nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm”.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Địa chủ,

VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.429)

Không chỉ có một mình hương giới mà cả hương văn và hương thí cũng tỏa ngát mười phương, tối thắng, tối thượng, các loại hương thế gian không thể bì kịp.

Văn chính là nghe giáo pháp, tức năng lực tìm học, nghiên tầm và thấu hiểu Chánh pháp. Nghe pháp rồi tư duy, tư duy rồi thực hành giáo pháp để thể nhập. Phật từng dạy ai thấy Pháp thì người ấy thấy Phật. Cho nên, người thấu triệt giáo pháp và nhiệt thành hoằng dương Chánh pháp sâu rộng trong nhân gian có công đức vô lượng, tiếng lành trùm khắp pháp giới mười phương.


Thí là bố thí và cúng dường. Thí xả mà đạt đến đỉnh cao ba-la-mật thì có thể khiến cho tham ái và chấp thủ diệt tận, chứng đắc Niết-bàn. Người nào thực hành bố thí và cúng dường bền bỉ, sâu rộng và thoát ly mọi chấp thủ thì chắc chắn tiếng tốt đồn xa, danh thơm lừng khắp.

Như vậy, ba loại hương của giới hạnh, nghe pháp, bố thí chính là hương thơm quý giá nhất trong đời. Đặc biệt là cả ba loại hương này mỗi người đều có thể chế tác được nhờ nỗ lực tu tập của chính mình. Không chỉ tỏa hương thơm khắp mười phương, ba loại hương vi diệu này cũng chính là nền tảng của giải thoát, an lạc.

Quảng Tánh
(Nguồn: Thư Viện Hoa Sen)

KHÔNG NÓI DỐI LÀ BÀI CHÚ HỮU HIỆU NHẤT


Thời gian quý báu như thế, cho nên chúng ta không được lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành tựu. Phàm là kẻ dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi, chẳng có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián đoạn sự tu hành. Về điểm này. tôi hy vọng mọi người hãy chú ý. 





Khai Thị của HT Tuyên Hoá


- Không nói dối là bài chú hữu hiệu nhất!

- Nếu quý vị có thể không tranh, không tham, không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy!

- Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu cho quý vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý vị cũng chỉ phí thời gian trong Đạo Phật và tạo nghiệp chướng với mỗi bữa ăn mình thọ dụng.

- "Đạo có sẵn ngay đó, đừng tìm cầu đâu xa." Nhưng người ta luôn luôn tìm con đường tắt; họ chạy loanh quanh tìm "mật pháp" để tu hành.

- Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,
 Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,
 Thành thật chân chánh, bị chế diễu,
 Gian ngoa xảo trá, được tán dương.
 Thế giới Ngũ Trựơc híếm thanh tịnh,
 Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,
 Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:
 Chấn hưng Phật Giáo cậy Tỳ Kheo!



Người xuất gia dù ở bất cứ đâu cũng đều phải giữ vững Giới Luật. Khi chưa dứt được sanh tử, chưa đoạn được tâm dâm dục, thì chúng ta không lúc nào được biếng nhác, buông lung, phóng túng. Đức Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng :

"Một ngày đã hết, mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì ?
Đại chúng ! Hãy siêng tinh tấn, như cứu đầu cháy,
Nên nhớ vô thường, chớ mặc buông lung !"

Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng giây từng phút. Hãy nhớ rằng :

Một tấc thời gian : một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.

Thời gian quý báu như thế, cho nên chúng ta không được lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự thành tựu. Phàm là kẻ dụng công tu hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi, chẳng có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián đoạn sự tu hành. Về điểm này. tôi hy vọng mọi người hãy chú ý.

Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì tôi cảm thấy vô cùng đau xót. Như thế chẳng phải rằng họ đã không thực hành thệ nguyện mà họ đã lập lúc ban đầu, khi mới xuất gia tu hành hay sao? Những kẻ xuất gia mà "tâm nghĩ một đằng, miệng nói một nẻo" thì có xứng đáng là Tăng Bảo hay không? Tôi mong rằng các vị đều biết tự trọng!

HT Tuyên Hóa
(Chùa Vạn Phật)

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2014

CÔNG ĐỨC CỦA MƯỜI NGHIỆP LÀNH



Thiện-pháp đây tức là mười nghiệp đạo thiện. Những gì là mười? Nghĩa là xa lìa sát-sanh, trộm cắp, tà-hạnh, vọng-ngôn, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ-ngữ, tham-dục, sân-nhuế và tà-kiến






(Trích từ Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo)


 1. CÔNG ĐỨC XA LÌA SỰ SÁT SANH

Long-vương! nếu xa lìa sát-sanh thời được thành tựu mười pháp không còn bức não. Những gì là mười?

  1. Đối với các chúng sanh cùng khắp bố-thí đức vô-úy;  
  2. Thường khởi lòng đại từ đối với chúng sanh. 
  3. Dứt sạch tất cả các tập khí (thói quen) giận hờn; 
  4. Thân thường không bệnh. 
  5. Sống mạnh lâu dài. 
  6. Thường được phi-nhơn (quỷ thần) ủng hộ, 
  7. Thường không ác mộng, thức ngủ an vui. 
  8. Diệt trừ oan kiếp, oán thù tự giải. 
  9. Không sợ sa đường dữ. 
  10. Khi chết sanh lên trời.  

Ấy là mười công đức.

Nếu hồi-hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau khi thành Phật, được quả Phật thì tùy tâm tự tại sống lâu.

2. CÔNG ĐỨC XA LÌA TRỘM CẮP

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa trộm cắp thời được mười pháp bảo tín. Mười pháp ấy là gì?

 

  1. Giàu có của cải; vua, giặc, nước, lửa và con hư không phá diệt;  
  2. Nhiều người thương mến; 
  3. Người không dối gạt; 
  4. Mười phương khen ngợi; 
  5. Không lo tổn hại; 
  6. Tiếng tốt đồn khắp; 
  7. Ở giữa đại chúng không sợ hãi; 
  8. Của cải, tánh mạng, hình sắc, sức lực, an vui, biện tài đầy đủ không thiếu;
  9. Thường sẵn lòng bố thí;
  10. Mạng chết sanh lên trời.  

Nếu hồi hướng về đạo Vô-Thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, được chứng trí Thanh-tịnh Đại-Bồ-Đề.

3. CÔNG ĐỨC XA LÌA TÀ-HẠNH (TÀ-DÂM)

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa Tà-hạnh, thời được bốn pháp, kẻ trí ngợi khen. Những gì là bốn?

 

  1. Pháp căn điều thuận;  
  2. Xa lìa rộn ràng; 
  3. Được đời khen ngợi; 
  4. Vợ không ai xâm phạm.  

Ấy là bốn công đức về chánh-hạnh. Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, được trượng-phu ẩn-mật-tàng tướng.

4. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP VỌNG-NGỮ

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa vọng-ngữ thời được tám pháp trời khen ngợi. Những gì là tám?

 

  1. Miệng thường thanh-tịnh, thơm mùi hoa ưu-bát;  
  2. Được người tín phục;
  3. Mở lời thành chứng, nhơn thiên kính mến; 
  4. Thường đem lời êm dịu, an ủi chúng sanh;
  5. Được ý vui thù thắng, ba nghiệp thanh tịnh;
  6. Nói không sai lầm, lòng thường hoan hỷ;
  7. Mở lời tôn-trọng, nhơn thiên phụng hành; 
  8. Trí-huệ thù thắng không ai chế phục.  

Ấy là tám món công đức về hạnh không vọng-ngữ. Nếu hồi hướng về đạo Vô-thượng Bồ-Đề, sau thành Phật được chơn-thiệt-ngữ của Như-Lai.

5. CÔNG-ĐỨC XA LÌA NGHIỆP HAI LƯỠI

Lại nữa Long-vương! Nếu xa lìa nghiệp hai lưỡi, thời được năm pháp không thể phá hoại. Những gì là năm?

  1. Được thân bất hoại, không ai hại được;
  2. Được bà con bất hoại, không ai phá hại;
  3. Được lòng tin bất hoại, thuận theo bổn nghiệp;
  4. Được pháp hạnh bất hoại, chỗ tu kiên cố; 
  5. Được thiện-tri-thức bất hoại; không dối lừa nhau.  

Năm công đức này nếu hồi hướng về đạo Vô-thượng Chánh-đẳng, Chánh-giác, sau thành Phật, được quyến thuộc chơn-chánh, các tà ma ngoại đạo không thể phá hoại.

6. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP ÁC-KHẨU

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa ác-khẩu thời được thành tựu tám món tịnh-nghiệp. Những gì là tám?

 

  1. Lời nói không trái pháp độ;
  2. Lời nói có lợi ích;
  3. Lời nói quyết lý;
  4. Lời nói đẹp đẽ; 
  5. Lời nói thừa lãnh được;
  6. Lời nói được tin dùng; 
  7. Lời nói không thể chê; 
  8. Lời nói được ưa thích. 

Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác, sau thành Phật, đầy đủ phạm-âm-thanh tướng của Như-Lai.

 

7. CÔNG ĐỨC XA LÌA Ỷ-NGỮ (nói thêu dệt)

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa ỷ-ngữ, thì thành tựu ba món quyết-định. Những gì là ba?

 

  1. Được người trí yêu mến;  
  2. Dùng trí như-thật đáp các người hỏi; 
  3. Ở nhơn thiên oai đức tối-thắng, không hư vọng.  

Nếu hồi hướng Vô-thượng Chánh-đẳng, Chánh-giác, sau thành Phật, được Như-Lai thọ ký, chẳng có luống dối.

8. CÔNG ĐỨC XA LÌA THAM-DỤC

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa tham-dục thời được thành tựu năm món tự tại. Những gì là năm?

  1. Ba nghiệp tự tại, các căn cụ túc;
  2. Của cải tự-tại, oán-tặc, không cướp lại;
  3. Phước đức tự tại, toại lòng yêu muốn, vật dụng đầy đủ; 
  4. Vương-vị tự tại, đồ vật quý lạ, đều được phụng hiến;  
  5. Những vật được, thù thắng xấp trăm lòng mong cầu; vì ngày xưa không bỏn sẻn ganh ghét.  

Nếu hồi hướng Vô-thượng Bồ-Đề sau thành Phật, tam-giới đặc biệt tôn-trọng thảy đều kỉnh nhường.

9. CÔNG ĐỨC XA LÌA SÂN NHUẾ (sân hận)

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa sân-hận, thời được tám món tâm-pháp hỷ-duyệt. Những gì là tám?

  1. Không có lòng tổn não;  
  2. Không còn sân hận; 
  3. Không có lòng gây kiện; 
  4. Lòng nhu-hòa, ngay thật;
  5. Được từ tâm của bậc thánh giả; 
  6. Sẵn lòng làm lợi-ích an-lạc cho chúng sanh;  
  7. Thân tướng đẹp đẽ, chúng đều tôn-kính; 
  8. Do sự hòa-nhẫn; mau sanh về cõi phạm-thiên.  

Nếu hồi hướng đạo Vô-thượng Bồ-Đề, sau thành Phật, được tâm vô ngại của Phật, người trông không chán.

10. CÔNG ĐỨC XA LÌA NGHIỆP TÀ-KIẾN

Lại nữa Long-Vương! Nếu xa lìa tà-kiến thời được thành-tựu mười pháp công đức. Những gì là mười?

  1. Được ý vui chơn-thiện, bầu bạn chơn-thiện;
  2. Thâm tín nhơn-quả; thà bỏ thân-mạng trọn chẳng làm ác.
  3. Chỉ quy-y Phật, không quy y các thiên-thần;  
  4. Trực tâm chánh-kiến, xa hẳn tất cả ngờ vực cát hung;
  5. Thường sanh nhân-thiên, không sa vào đường dữ; 
  6. Vô-lượng phước huệ, lần lữa thêm nhiều; 
  7. Xa hẳn đường tà, tu hành thánh-đạo; 
  8. Chẳng sanh khởi thân-kiến, bỏ các ác nghiệp; 
  9. Kiến giải vô ngại;
  10. Chẳng bị các tai-nạn.  

Ấy là mười điều; nếu đem hồi-hướng về quả Vô-thượng Bồ-Đề, sau thành Phật, mau chóng ngộ được tất cả Phật-pháp, thành tựu thần-thông tự-tại.

(Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh)