Tạo tác của chúng ta không chỉ là hành vi (hành vi thì rất là nghiêm trọng), mà khởi tâm động niệm cũng đều là tạo tác. Khi minh bạch những chân tướng sự thật này, tâm lo sợ của chúng ta liền sanh khởi. Tâm lo sợ là khiếp sợ ác báo, ta khởi niệm ác, làm việc ác, tương lai ác báo quyết định không thể tránh khỏi, nên gọi là “lưới trời lồng lộng, một mảy lông cũng không lọt”. Đạo lý cùng sự thật này, người đời nay rất ít ai biết được.
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (tập 05)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Thời gian: năm 1999
Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ
Chúng ta đã đọc qua bốn câu cương lĩnh của Cảm Ứng Thiên ở phía trước, cũng chính như Tư Mã Quang đã nói: “Ta giữ lại tiền của cho con cháu, con cháu chưa chắc có thể nắm giữ được. Ta giữ sách vở cho con cháu, con cháu chưa chắc có thể đọc. Tốt nhất là nên tích đức, tích công bồi đức thì đời sau của chúng ta nhất định có quả báo tốt”. Chỉ có người chân chính thấu suốt cảm ứng chi đạo thì mới có thể nói ra được những lời này.
Phật dạy chúng ta, từ quan hệ cha con, quan hệ anh em cho đến quan hệ với tất cả mọi người đều không ngoài bốn loại duyên là báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Nếu như không phải bốn loại duyên phận này, dù tương ngộ cũng không hề quen biết, chúng ta gọi là người lạ, mặt lạ, không quen. Ngay trong đời này chỉ cần phát sinh quan hệ với mình, thì nhất định trong đời quá khứ có liên quan đến bốn loại duyên nghiệp trên.
Trong duyên nghiệp có thiện, có ác. Chúng ta hiểu được thông suốt thì nhất định phải biết đoạn ác, tu thiện. Ta thiếu nợ người nhất định phải trả. Người khác lừa gạt ta, xâm phạm ta, cướp đoạt của ta, ta đều phải nghĩ là đang trả nợ, trong lòng ta sẽ dễ chịu và cảm thấy tự tại. Họ gạt ta, trộm cắp, cướp đoạt của ta, vì sao họ không đi lừa gạt, cướp đoạt của người khác? Vì trong đời quá khứ người khác không có cái duyên này với họ. Nói cách khác, chúng ta trong đời quá khứ đã từng lấy, đã từng ăn cắp, đã từng cướp đoạt của họ, hôm nay gặp được nhân duyên tương ngộ, vẫn là dùng phương pháp này họ lấy đem đi. Được dịp chúng ta đã trả nợ! Cho nên, chúng ta phải hoan hoan hỉ hỉ cùng với tất cả chúng sanh kết thiện duyên, không kết ác duyên, cho dù gặp phải ác duyên, quyết cũng không để trong lòng.
Người xưa nói: “Nhân quả vô địch”, người nhân từ, người có lòng yêu thương, người có lòng từ bi thì họ trọn đời trọn kiếp tuyệt đối không có oan gia đối đầu. Lời nói này phải hiểu thế nào vậy? Oan gia đối đầu đương nhiên là có, nhưng trong lòng họ xác thực không có, tâm địa thanh tịnh, từ bi, cho dù là oan gia đối đầu, họ cũng là chân thành ái hộ với oan gia. Khi thấy người có khó khăn, nhất định nhiệt tâm giúp đỡ họ, không có ghét bỏ, làm người như vậy hậu phước rất lớn. Cho dù đời trước chúng ta không có phước, phước rất mỏng, nếu như cả đời có thể tin tưởng đạo lý của cảm ứng, y giáo phụng hành, làm được rất chăm chỉ, rất nỗ lực thì ngay trong đời này phước báo liền hiện tiền.
Cả đời tôi các vị đồng tu đều rõ, đời trước tôi có tu huệ, không tu phước, nên đời này tôi có được một chút huệ, không có phước, đời sống vật chất vô cùng khó khăn. Tôi đã trải qua những ngày tháng khổ cực rất dài, nếu là người khác thì sẽ không chịu nổi. Thế nhưng, tuổi tác càng cao dường như phước báo cũng càng thêm lớn, đây không phải do đời trước tu mà do đời này tu được, điều này các vị đều chính mắt nhìn thấy. Cuối đời tôi, không luận là làm việc gì đều rất thuận tâm, đều rất tự tại. Đây là tôi làm sự chứng chuyển cho mọi người, nhà Phật nói tam chuyển pháp luân, tôi làm chứng minh cho mọi người. Chỉ cần cố gắng đoạn ác tu thiện, chỉ cần đem lòng thương yêu chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, đối với tất cả chúng sanh không phân người thân, kẻ oán, nhất tề bình đẳng. Tôi không cầu phước báo, phước báo tự nhiên hiện tiền; không cầu thọ mạng, thọ mạng tự nhiên kéo dài, những thứ này tôi không hề có mong cầu. Tôi tuyệt nhiên không nghĩ ở lâu dài thế gian này, tất cả tuân theo lời giáo huấn của Phật Bồ Tát tùy duyên qua ngày. Ngạn ngữ trong Phật môn gọi là “làm Hòa Thượng một ngày, đóng một ngày chuông”. Sinh mạng vẫn còn ở thế gian một ngày thì vì Phật pháp, vì chúng sanh làm một ngày việc tốt. Tôi không mong cầu phước báo, không mong cầu danh vị, cũng không mong cầu trường thọ, không cầu bất cứ thứ gì, ngày tháng này làm sao mà không tự tại? Một số người hảo tâm đối với sinh hoạt của tôi rất lo lắng, thường thường đến hỏi thăm, tôi cũng tùy duyên. Cho nên phải hiểu sâu lý luận của báo ứng và chân tướng sự thật.
Kinh văn: “Thị dĩ thiên địa hữu tư quá chi thần, y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán”.
Đoạn kinh văn trên là tổng thuyết. Trong thiên địa có thiên thần, có quỷ thần. Trong thiên thần, quỷ thần có một loại chuyên môn đi làm công tác điều tra. “Tư quá chi thần” chính là những người đi làm công việc giám sát. Họ thường ở thế gian để quan sát. Các vị phải nên biết thiên thần cùng quỷ thần, Phật ở trên kinh nói họ đều có ngũ thông. Ngũ thông này của họ là do phước báu mà có được. Trừ lậu tận thông họ không có, còn thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, thần túc, họ thảy đều đầy đủ. Sức mạnh thần thông của địa thần không bằng thiên thần, đương nhiên năng lực này của thiên thần lại không thể so sánh với người tu hành chứng quả. Đối với người thế gian chúng ta mà nói, năng lực đó của họ đều đầy đủ, khởi tâm động niệm của chúng ta họ đều biết, đều có hồ sơ ghi chép. Sau khi chết cần phải chịu sự phán xét. Sự phán xét này, phần sau của quyển sách này nói đến rất nhiều.
Tạo tác của chúng ta không chỉ là hành vi (hành vi thì rất là nghiêm trọng), mà khởi tâm động niệm cũng đều là tạo tác. Khi minh bạch những chân tướng sự thật này, tâm lo sợ của chúng ta liền sanh khởi. Tâm lo sợ là khiếp sợ ác báo, ta khởi niệm ác, làm việc ác, tương lai ác báo quyết định không thể tránh khỏi, nên gọi là “lưới trời lồng lộng, một mảy lông cũng không lọt”. Đạo lý cùng sự thật này, người đời nay rất ít ai biết được. Người không có thiện căn, không có phước đức, ta nói với họ, họ cho đây là mê tín, đây là thần thoại, họ không thể tin tưởng, không thể tiếp nhận. Khi quả báo hiện tiền thì hối hận cũng không còn kịp nữa. Họ không thể tin là do “nghi”. Tham-sân-si-mạn-nghi là phiền não rất nặng, chướng ngại trí huệ của ta, khiến cho ta tạo tác tội nghiệp vô lượng vô biên.
Phật ở trong kinh Hoa Nghiêm nói với chúng ta, mỗi một người khi sanh ra liền có hai vị quỷ thần đi theo ta, cả đời đều không rời khỏi ta. Hai vị thần này ở trên hai vai, chúng ta tự mình không thể phát hiện, người khác cũng không nhìn thấy. Một vị gọi là Đồng Sanh, một vị gọi là Đồng Danh. Hai vị thiên nhân này cũng xem là thiên thần, họ cả đời giám sát chúng ta, ngày đêm đều ở bên ta, nhưng chúng ta không nhìn thấy họ. Hai vị thần này trong Phật kinh cũng có tên gọi khác là Thiện Ác Đồng Tử. Một vị thần xem cả đời làm thiện của ta, một vị thần xem cả đời tạo ác của ta, ta có thể trốn khỏi hay không? Không cách gì trốn khỏi! Trên kinh Đại thừa gọi là hai vị Đồng Tử Thiện Ác, cũng chính là trên kinh Hoa Nghiêm gọi là Đồng Sanh, Đồng Danh.
Chúng ta học Phật mà lại tin Phật quá khó. Tôi đã từng nói qua với các vị, sau khi xuất gia hai năm tôi mới thọ giới. Sau khi thọ giới tôi đến Đài Trung thăm Lý lão sư. Lý lão sư khi vừa thấy mặt liền chỉ vào tôi nói: “Ông phải tin Phật!”. Tôi cũng sững sờ ra. Tôi học Phật bảy năm thì xuất gia. Sau khi xuất gia thì liền giảng kinh, dạy học ở Phật học viện, đã giảng kinh hai năm rồi. Lý lão sư khi vừa thấy mặt, chỉ vào tôi bảo rằng phải “tin Phật”, sau đó Ngài giải thích với tôi là có rất nhiều người xuất gia đến già chết, bảy - tám mươi tuổi vẫn không tin Phật. Lúc này tôi mới vỡ lẽ ra, làm sao mới gọi là “tin Phật”. Tất cả lời dạy bảo của Phật, ta có khả năng lý giải, ta có thể y giáo phụng hành thì gọi là tin Phật; ngược lại, ta không hiểu rõ đạo lý, ta không làm được là ta không tin Phật. Chúng ta mới hiểu ra, thật có biết bao nhiêu người cả đời mặc bộ y phục này, ở ngay trong tự miếu mà không tin Phật, không chân chính y giáo phụng hành. Người xuất gia như vậy, người ở tại gia cũng như vậy. Thế nên trong tín, quyết định phải có nguyện, có hạnh. Nếu như không có nguyện, không có hành vậy thì gọi là không tin. Trong niềm tin nhất định phải đầy đủ “Giải-Hành-Chứng” (chính là “Tín-Giải-Hành-Chứng”).
“Giải” là đối với lý luận, phương pháp, cảnh giới mà Phật đã nói thông đạt tường tận.
“Hành” là phải đem nó áp dụng.
“Chứng” chính là khế nhập.
Như vậy thì ta mới được thọ dụng chân thật, trong Phật pháp gọi là được lợi ích chân thật.
Ngôn ngữ của Phật chính như Thế Tôn ở trong kinh Kim Cang đã nói:
“Chân ngữ giả”, “chân” là quyết định không giả.
“Thật ngữ giả” là quyết định không hư dối.
“Như ngữ giả” là quyết định tương ưng với sự thật. Không tăng, không giảm gọi là “như ngữ”.
“Bất cuồng ngữ giả” là quyết định không lừa gạt chúng sanh.
“Bất dị ngữ giả” là quyết định không nói lời thêu dệt, không nói hai chiều, lời nói giống như thật mà lại là giả. Phật không nói những lời này. Lời nói của Phật là rất khẳng định.
Phật nói với chúng ta, mỗi một người cả đời đều có hai vị thiên nhân Thiện Ác Đồng Tử ngày đêm đi theo, một phút một giây đều không rời khỏi ta. Nếu như chúng ta thường nghĩ đến hai vị Thiện Ác Đồng Tử này đang ở bên cạnh ta, thì khi khởi tâm động niệm, lời nói, việc làm của ta, làm sao chúng ta dám không cẩn trọng? Lời nói này của Phật quyết định không phải giả, nhất định không phải là lời lừa gạt chúng ta.
Chúng sanh từ vô thỉ kiếp đến nay, phiền não tập khí tích chứa rất sâu dày. Thời xưa có cha mẹ dạy bảo, thầy giáo dạy bảo, bè bạn khuyên nhủ, hoàn cảnh tu học rất tốt, cho nên ác nghiệp của chúng ta ít, thiện nghiệp tương đối nhiều. Cảnh ngộ chúng ta bây giờ không giống như vậy. Văn hóa xưa, truyền thống xưa, người bây giờ không cần, không tin tưởng nữa, cho nên cha mẹ cũng không thể dạy ta, thầy giáo cũng không để ý đến những việc này. Thế là ngay trong cả đời này, chúng ta tùy thuận phiền não, tùy thuận tập khí, tạo tác tội nghiệp vô lượng vô biên, chúng ta làm sao mà không đọa lạc, làm sao không bị trừng phạt của thiên địa quỷ thần? Cá nhân như vậy, gia đình như vậy, thế giới cũng là như vậy. Các vị xem, những lời dự ngôn (ở một số nhà sách bây giờ xuất bản rất nhiều. Tôi rất ít đi dạo nhà sách, có nhiều vị đồng tu mua đến đưa tôi xem) nói là năm 1999 – 2000 là ngày tàn của thế giới. Người thế gian tạo tác tội nghiệp quá nhiều, Thượng Đế tức giận muốn trừng phạt thế nhân. Cách nói này cũng phù hợp với đạo lý của cảm ứng. Tại vì sao người thế gian đều tạo ác? Vì không có người dạy họ. Tại vì sao không có người dạy? Phật Bồ Tát đại từ đại bi, vì sao không giáng sanh ở thế gian để dạy dỗ chúng ta? Vì người thế gian không chịu tiếp nhận! Chính vì vậy mới có đại kiếp nạn này.
Hôm qua có một vị cư sĩ đến thăm tôi và hỏi, kiếp nạn này có thể tránh được hay không? Tôi thật lòng mà nói, rất khó tránh khỏi. Lý luận và phương pháp để tránh nhất định là có, nhưng không cách gì thực hiện. Ai có khả năng sửa lỗi tự làm mới? Ai có thể chịu buông bỏ lợi ích của chính mình, vì xã hội, vì chúng sanh phục vụ? Nếu như không chịu buông bỏ tự tư tự lợi, vẫn cứ làm những việc tổn người lợi mình, thì kiếp nạn này không có cách gì tránh khỏi. Cho nên phải hiểu được chân tướng sự thật này.
“Thiên Địa hữu tư quá chi thần”, chúng ta chỉ giới thiệu ra hai vị Đồng Sanh, Đồng Danh mà trên kinh Hoa Nghiêm đã nói. Ngoài hai vị này ra, Thiên Địa quỷ thần giám sát thế gian, ghi chép thiện ác của người, loại quỷ thần này số lượng nhiều không thể tính đếm được. Trong các tôn giáo đều nói, đều có ghi chép lại. Sự khởi tâm động niệm, lời nói hành động của chúng ta đều không thể che giấu được ai. Điều này chúng ta nhất định phải biết, tự mình khắc phục phiền não, khắc phục tập khí của chính mình, thay đổi tự làm mới, nỗ lực tu hành.
Chúng ta không cầu quả báo đời này mà cầu quả báo đời sau. Đời sau có đại phước báo, đời sau nhất định hướng cao lên trên. Mục tiêu nâng cao của chúng ta là ở thế giới Cực Lạc. Hãy nghĩ xem, chúng ta tự mình gìn giữ cái tâm, lời nói của ta, đối nhân xử thế tiếp vật như thế nào, có đủ tư cách để đi đến Tây Phương Cực Lạc không? Sau đó liền biết được chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh có nắm chắc hay không.
Chúng ta đã nói đến “Thiên địa hữu tư quá chi thần, y nhân sở phạm khinh trọng, dĩ đoạt nhân toán”.
Đây đều là sự thật. Tuyệt đối không phải là Phật Bồ Tát, cổ thánh tiên hiền dùng phương cách này để khuyên dạy thế nhân đoạn ác, tu thiện. Nếu như chúng ta dùng thái độ này để nhìn những sự việc, vậy thì sai rồi. Lời của các bậc Thánh hiền đều là lời chân thật, quyết định không có vọng ngữ. Phương pháp, thủ đoạn khuyên dạy thế nhân rất nhiều, quyết định không thể dùng phương pháp hư cuồng không thật. Người thế gian chỉ cần phát hiện ta một lần vọng ngữ, về sau nói cái gì họ cũng đều không tin. Trên thế giới có rất nhiều quốc gia như nước Mỹ, Âu châu cũng là như vậy, ta làm việc với cơ quan công chức chính phủ, nếu có một lần lừa dối vọng ngữ, họ ghi chép trong hồ sơ, về sau ta có nói gì họ cũng sẽ không tin. Thế pháp mà còn như vậy, huống hồ chư Phật Bồ Tát. Những bậc đại thánh đại hiền này, lời của họ đã nói, chúng ta nên chăm chỉ phụng hành.
Phật Bồ Tát đã từng nói với chúng ta, thiên địa tuy là có những thần đạo quán sát thiện ác thế nhân, nếu như ý niệm của chúng ta chuyển đổi lại thì tình huống này liền hoàn toàn khác đi. Thế gian thánh nhân dạy bảo chúng ta: “Khắc niệm tác thánh”. Niệm là vọng niệm. Khắc phục vọng niệm thì ta chính là thánh nhân. Thiên địa quỷ thần đối với thánh hiền nhân đều rất tôn kính, đều rất bảo hộ (tình huống là hoàn toàn khác nhau, cho đến cảnh giới của Phật Bồ Tát cao hơn). Trong chú giải có một đoạn dẫn dụng của kinh Hoa Nghiêm. Phía sau là giải thích của tổ sư đại đức, dạy bảo chúng ta công phu khắc kỷ là phải đi từ chỗ khó khắc phục nhất mà hạ công phu. Khắc kỷ chính là thay đổi tự làm mới. Chúng ta tự mình phải phản tỉnh, ở ngay trong đời sống thường ngày, khuyết điểm nào là lớn nhất thì từ ngay chỗ khuyết điểm lớn nhất đó mà bắt tay vào. Khuyết điểm lớn là nơi rất khó thay đổi, mà chúng ta đều thay đổi được rồi thì khuyết điểm nhỏ rất dễ dàng.
Ngay trong hoàn cảnh hiện tại trước mắt, chúng ta xem thấy truyền thuyết cổ xưa (bây giờ thì truyền thuyết này rất nhiều, các mặt trong xã hội thường thường có thể nhìn thấy) dường như đều tập trung ở 1999 – 2000 – 2001, ngay trong ba năm này, thế gian sẽ xảy ra tai nạn rất lớn. Tai nạn từ đâu đến vậy? Do ác nghiệp của chúng sanh chiêu cảm đến. Đây là cái lý của cảm ứng. Truyền thuyết chưa hẳn là thật. Thế nhưng chúng ta tỉ mỉ quan sát xã hội này, quan sát thế đạo nhân tâm, nhân tâm bất thường! Họ bài trừ tất cả thiện pháp; hoan hỷ tiếp nhận tất cả ác pháp; “thập thiện nghiệp đạo” người ta nghe rồi lắc đầu; “tạo mười ác nghiệp” thì họ lại gật đầu, vậy thì còn cách gì nữa? Tham-sân-si-mạn, lừa dối người khác, ngay trong mỗi niệm muốn khống chế, chiếm hữu tất cả người sự vật, luôn làm những việc tổn hại người, lợi mình. Kỳ thật, tôi đã nói rất nhiều là tổn hại người thì quyết định không lợi cho chính mình. Họ đã hiểu lầm rồi! Tổn hại người là hại luôn cả chính mình! Ta hiện tại được lợi rất ít, sau khi chết chắn chắn phải đọa tam đồ, cái khổ đó ắt phải chịu. Thông suốt được đạo lý này, hiểu rõ sự thật này trước mắt chịu khổ một chút có là bao? Đời sau sẽ hưởng phước báo nhân thiên. Càng thù thắng hơn nữa là niệm Phật vãng sanh làm Phật, làm Tổ. Đây mới là đại lợi ích chân thật.
Nếu bạn muốn đạt được lợi ích chân thật thì cần phải sửa đổi tâm bệnh của chính mình, không thể không sửa, không th̉ể không thay đổi. Chỗ không giống nhau của tất cả chúng sanh cùng chư Phật Bồ Tát là chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, từ bi. Tâm Phật, tâm Bồ Tát là như vậy, còn tâm phàm phu hoàn toàn trái nghịch lại với tâm này. Tâm phàm phu là hư ngụy, hư giả, ô nhiễm, cao thấp, tự tư tự lợi. Chân thật sửa đổi thì phải từ nơi tâm mà sửa. Nếu như chân thật được tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng thì nghiệp chướng của vô lượng kiếp đều được tiêu trừ. Giống như trong Đại thừa kinh thường nói “Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới”, mọi người đều đã từng nghe qua.
Phật dạy: “Từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”. Lòng yêu thương chân thành, lòng thương yêu thanh tịnh, bình đẳng thì gọi là từ bi. Tình yêu thương này là tận hư không biến pháp giới. Chúng ta xem thấy trong các tôn giáo khác cũng thường nói “Thượng đế ái thế nhân”. Do đây có thể biết, hư không pháp giới chỉ là một thứ chân thật, đó chính là yêu thương. Có thể yêu thương tất cả chúng sanh hư không pháp giới, đây mới là chân thật yêu thương chính mình. Đạo lý này là chân tướng sự thật.
Nghiệp nhân quả báo trên kinh giảng nói rất rõ ràng, rất minh bạch. Chúng ta tu hành như vậy, các vị nghĩ xem, những “Thiên Địa tư quá chi thần” này còn có thể ghi chép lỗi của ta, đoạt đi số mạng của ta nữa hay không? Không thể được! Cũng chính là ta vượt qua phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của họ. Nếu còn dùng vọng tâm, còn có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, vẫn còn muốn làm những việc không thể cho người ta trông thấy hoặc biết, thì ta còn ở trong phạm vi trách nhiệm của thiên địa quỷ thần, ta không cách gì vượt qua, việc này phải nên hiểu biết.
Trong chú giải có một công án nói về Vương Dụng Dư, tiên sinh triều nhà Minh. Đoạn công án này rất dài, ý nghĩa rất sâu, đáng để chúng ta cảnh giác. Đoạn công án này là thật, không phải giả, người thế gian gọi là “Nhất ẩm nhất trát, mạc phi tiền định”. Ai định vậy? Là tự mình định. Đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức mà đạt được quả báo. Vương Dụng Dư tiên sinh, ba đời đều tích đức, từ tổ phụ, thân phụ của ông đến ngay trong cả đời ông chưa từng lừa gạt một người. Dùng tâm thuần chánh đối nhân xử thế tiếp vật, có thể xả mình vì người, hoan hỷ giúp đỡ người khác, hết lòng hiếu để, cho nên sự tích của cảm ứng liền rất rõ ràng. Thời xưa thi cử công danh, chúng ta cũng đã từng nghe người nói qua, tham gia thi cử có thể thi được hay không, nhân tố thứ nhất là âm công, âm đức mà ta đã tích. Con người này tổ tông mấy đời tích âm đức, đến đời ông phát đạt. Cho nên, kiết hung họa phước là do ở ta, điều này phải hiểu. Chưa được minh tâm kiến tánh, tất cả đều là tu đức, chúng ta phải đặc biệt lưu ý.
Ngày hôm trước, tôi nghe nói Tường Vân pháp sư bị bệnh, bệnh rất đột nhiên, nghe nói bây giờ ông đang ở trong bệnh viện, bất tỉnh nhân sự. Tại vì sao người xuất gia chúng ta không thể sánh được với người tại gia? Chúng ta ở nơi đây nhìn thấy người tại gia niệm Phật vãng sanh, điềm lành hy hữu. Năm ngoái, hội trưởng của Hội Quan Âm Cứu Khổ là Lâm Y Sanh vãng sanh. Tôi có đi thăm ông, cũng có rất nhiều đồng tu đến trợ niệm cho ông ấy. Khi ông ra đi thần trí rõ ràng, ông nói với mọi người: “Tôi không nhìn thấy các vị nữa, chỉ nhìn thấy một đạo kim quang” và ông liền ra đi. Thấy Phật Bồ Tát tiếp dẫn vãng sanh, chúng ta nghe được rất nhiều, thậm chí người đọc kinh, niệm Phật có rất nhiều cảm ứng không thể nghĩ bàn. Những cảm ứng này chúng ta biết, nhưng chúng ta không nói. Chỉ cần dùng tâm chân thành mà tu học, đoạn ác tu thiện, cải đổi tự làm mới, thành thật niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, thì quyết định được sanh.
Ở đoạn sau cuối cũng có nêu lên một câu chuyện nhỏ. Thời nhà Tống có một vị An Thiền Sư ở chùa Quang Hiếu. Trong thiền định ông nhìn thấy có hai người xuất gia đang nói chuyện. Ban đầu hai người này nói chuyện, bên cạnh có thiên thần ủng hộ, thế nhưng trải qua không bao lâu mấy vị thiên thần này đi mất. Sau đó có một số ác quỷ đi đến, quỷ vây quanh lấy họ, nhổ nước bọt vào mặt họ, mắng chửi họ. Nguyên nhân gì vậy? Khi hai vị xuất gia này cùng nhau nói chuyện, ban đầu là bàn luận Phật pháp nên thiên thần ủng hộ. Sau khi nói Phật pháp xong, họ bàn chuyện gia đình nên thiên thần đi mất. Sau đó lại nói đến danh vọng lợi dưỡng thì ác quỷ liền đến. Các vị phải nên biết, khi khởi tâm động niệm, ta niệm một niệm chân thiện thì chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ; một ác niệm vừa mới sanh thì yêu ma quỷ quái liền kéo đến. Cho nên, thảo luận chuyện thế gian đều bị quỷ thần khiển trách, nếu như nghĩ đến danh vọng lợi dưỡng thì đó là tạo tội nghiệp.
Chúng ta nghĩ thử xem, con người hiện tại thân-khẩu-ý ba nghiệp đã tạo, thực thế mà nói cùng với những người xuất gia này có hơn chứ không kém. Họ vẫn còn thảo luận Phật pháp, còn chúng ta bây giờ gặp mặt đều nói danh vọng lợi dưỡng, mấy ai còn thảo luận Phật pháp? Cho nên chúng ta cần phải hiểu rõ ràng, thế gian này “Pháp nhược, Ma cường”, hoằng pháp lợi sanh làm gì không gặp chướng ngại? Chỉ cần chúng ta tâm chánh, làm chánh. Có được thời gian của một ngày thì làm việc tốt một ngày. Trong việc tốt thù thắng nhất chính là hoằng pháp lợi sanh.
Có một số người đến hỏi tôi, chúng ta phải nên làm thế nào để xây dựng một đạo tràng? Xây dựng đạo tràng không khó, khó là ở cái tràng này có đạo hay không! Cái gì là đạo? Nhất định phải giảng kinh. Ngày nay trong và ngoài nước, có rất nhiều người đến Singapore để tham học, tán thán đạo tràng này thù thắng, hưng thịnh. Tại vì sao hưng thịnh, tại vì sao thù thắng? Đạo tràng này mỗi ngày giảng kinh, một năm, ba trăm sáu mươi ngày, chưa từng gián đoạn. Niệm Phật đường niệm Phật ngày đêm hai mươi bốn giờ, không gián đoạn. Mỗi ngày đều như vậy, cho nên kéo đạo tràng này hưng vượng. Trên dưới mấy ngàn người không có ý kiến, mọi người hòa thuận cùng ở với nhau. Ngày ngày đều phải giảng kinh, ngày ngày đều phải niệm Phật. Nếu ba ngày không giảng kinh, ba ngày không niệm Phật thì ý kiến liền đến, mọi người liền nghĩ ngợi lung tung, mỗi người có phân biệt của mỗi người, mỗi người có chấp trước của mỗi người, vậy thì không phải là đạo tràng. Các vị phải nên hiểu đạo lý này.
Chúng ta phải tích cực bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp. Nhân tài hoằng pháp từ đâu mà bồi dưỡng ra? Huấn luyện từ trên giảng đài mà ra. Ta không thể ngày ngày lên giảng đài thì ta làm sao có thể giảng được hay? Nếu ta muốn đem một bộ kinh giảng cho hay, giảng cho thấu triệt, thì mỗi ngày ta phải lên giảng đài luyện tập. Thành thành khẩn khẩn, cung cung kính kính tiếp nhận chỉ giáo phê bình của đại chúng; cố gắng sửa đổi tự làm mới, thì tự mình mới có thể tiến bộ. Thật sự muốn giảng được tốt, không chỉ phải hiểu một bộ phương pháp kỹ xảo giảng kinh, mà còn phải có đạo tâm chân thật. Mỗi chữ, mỗi câu đều từ trong tâm tánh lưu lộ ra, đó mới là thật. Đây chính là tự mình phải có công phu chân tu; không có công phu chân thật thì tuy có những kỹ xảo này, nhưng ta vẫn cứ không đạt được hiệu quả. Do đó nhất định là phải “tự hành hóa tha”, tự mình tu hành có công phu mới có thể chân chính giúp đỡ người khác, mới có thể khởi tác dụng cảm ứng đạo giao.
Câu chuyện này trong Cảm Ứng Thiên nhắc nhở, cảnh sách chúng ta, khiến cho chúng ta biết được, thật đúng như thế nhân đã nói: “Ngẩng đầu ba thước có thần minh”. Đây quyết định không phải là vọng ngữ, quyết định không phải là lừa gạt người. Chúng ta phải nên cảnh giác, chăm chỉ nỗ lực tu học, hy vọng nâng cao cảnh giới của chính mình, siêu việt phạm vi quyền hạn của quỉ thần, vậy thì ta thật sự thành công.
Tốt rồi, hôm nay thời gian đã hết, chúng ta giảng đến đây.
A Di Đà Phật!
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (tập 05)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Thời gian: năm 1999
Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét