Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

Y Pháp Bất Y Nhân - Phần II


"Chùa – Nhiều người cứ nghĩ: Chùa là chùa, nhà là nhà. Thực tế thì chùa và nhà cũng là một. Phật nói: Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Khi tâm mình, và những người trong gia đình mình không tịnh, đầy cấu uế, tham-sân-si… thì ngay tại gia, lúc ấy là địa ngục; ngược lại, nếu tâm mọi người đều thanh tịnh, không nhơ, thì lúc ấy tại gia cũng là Tịnh Độ..."




Huệ Tâm
 


Chồng chị bạn cãi lại:
- Bà đừng chủ quan quá. Không phải tôi không đến chùa là tôi không biết chuyện gì đang xảy ra. Bà thử cho tôi biết, bà đến chùa, bà được những gì? Tôi thấy hễ các bà không gặp nhau thì thôi, nhưng hễ gặp nhau là y như có động đất.
Chị bạn tôi lườm lườm chồng:
- Này, ông đừng nói xiên xỏ nghe! Tôi biết ông đang định nói gì đấy. Tôi đến chùa, tôi biết tôi nên nói gì, nên làm gì, và tôi có thể làm được những gì. Tôi thấy Sư Cụ bữa đó khuyên tôi một câu rất chí lý: Con cứ hoan hỉ và tùy duyên mà làm. Việc chùa thì có làm cả đời cũng chẳng hết… Tại sao Sư Cụ lại bảo “con cứ hoan hỉ và tuỳ duyên mà làm?”
- Bà giải thích đi! Chồng bạn chị bạn tôi nhổm người, nói như khiêu khích.
- Ông cứ suốt ngày chỉ lo nhậu với xem bóng đá, làm sao mà hiểu được Sư Cụ nói gì.
- Thế Sư Cụ nói gì? Chồng chị bạn hiếng mắt, nhìn vợ, giọng hoài nghi, hỏi.
- Ông làm sao thế? Hôm nay lại có tâm muốn nghe pháp cơ à? Sư Cụ nói vậy cũng giống như một lời cảnh tỉnh mình: Các con đến chùa hãy mang theo cái tâm thật hoan hỉ của mình mà đến, chứ đừng mang theo cái tâm tật đố, tâm bỏn xẻn, tâm đố kỵ, tâm ganh ghét, tâm chấp trước, tâm sân hận. Bởi nếu đem cái tâm ấy vào chùa, vô tình các con đã khiến cho cảnh giới của chùa mất đi sự trang nghiêm và thanh tịnh. Mà chính các con cũng không đem lại lợi ích gì cho bản thân.
Còn “việc chùa” các ông có hiểu thâm ý của Sư Cụ muốn dạy điều gì không?
- Ôi dào! Việc chùa với việc nhà cũng thế. Ở đâu mà chả có? Ở đâu mà chả phải làm? Chồng chị bạn đáp.
Chị bạn tôi nhìn chồng, thoáng thở dài, đáp:
- Nói như ông chỉ đúng được khía cạnh nhỏ. Nhưng hai chữ "việc chùa" mà Sư Cụ nói ở đây nó không hàm nghĩa những công việc đơn thuần trong sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày, sâu xa hơn Chùa chính là Đạo tràng; là chân tâm của chúng sanh, nó là sự giác ngộ, sự tu học, sự quán chiếu tâm của mình. Chùa – Nhiều người cứ nghĩ: Chùa là chùa, nhà là nhà. Thực tế thì chùa và nhà cũng là một. Phật nói: Tâm tịnh thì cõi Phật tịnh. Khi tâm mình, và những người trong gia đình mình không tịnh, đầy cấu uế, tham-sân-si… thì ngay tại gia, lúc ấy là địa ngục; ngược lại, nếu tâm mọi người đều thanh tịnh, không nhơ, thì lúc ấy tại gia cũng là Tịnh Độ. Như vậy Chùa (Đạo tràng) mà Sư Cụ nói cũng là nhà và nhà mình cũng chính là chùa (là Đạo tràng). Vì mình có tâm phân biệt, tâm chấp chước nên mình cứ rạch ròi chùa là chùa, nhà là nhà. Khi lên chùa thì mình có tâm (hoặc cố vẻ) thành kính, nhưng khi ra khỏi chùa, về tới nhà, ra công sở, ra nơi công cộng… thì tâm chúng sanh (tật đố, tham-sân-si…) lại trỗi dậy. Sư cụ đã cắt nghĩa cho tôi hiểu về hai chữ Đạo Tràng trong Kinh Duy Ma Cật như thế này: "Trực tâm là đạo tràng vì chẳng hư giả. Khởi hạnh là đạo tràng vì hay làm việc. Thâm tâm là đạo tràng vì tăng trưởng công đức. Bồ Ðề tâm là đạo tràng vì chẳng sai lầm. Bố thí là đạo tràng vì chẳng mong quả báo. Trì giới là đạo tràng vì được mãn nguyện. Nhẫn nhục là đạo tràng vì đối với chúng sanh tâm chẳng chướng ngại. Tinh tấn là đạo tràng vì chẳng giải đãi. Thiền định là đạo tràng vì tâm điều hòa dịu dàng. Trí huệ là đạo tràng vì thấy ngay các pháp. Từ là đạo tràng vì chúng sanh bình đẳng. Bi là đạo tràng vì chịu sự khó nhọc. Hỉ là đạo tràng vì vui thích chánh pháp. Xả là đạo tràng vì đoạn dứt yêu ghét. Thần thông là đạo tràng vì thành tựu lục thông. Giải thoát là đạo tràng vì hay nghịch tà bỏ vọng. Phương tiện là đạo tràng vì giáo hóa chúng sanh. Tứ nhiếp là đạo tràng vì nhiếp những chúng sanh khó độ. Ða văn là đạo tràng vì hành đúng theo sở văn do Phật dạy. Hàng phục tâm là đạo tràng vì chánh quán các pháp. Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng vì xả bỏ pháp hữu vi. Tứ đế là đạo tràng vì chẳng dối lầm thế gian. Duyên khởi là đạo tràng vì thập nhị nhân duyên đều vô tận. Phiền não là đạo tràng vì chứng biết đúng như thật. Chúng sanh là đạo tràng vì chứng biết vốn vô ngã. Tất cả pháp là đạo tràng vì chứng biết pháp tánh vốn không. Hàng ma là đạo tràng vì chẳng bị lay động. Tam giới là đạo tràng vì chẳng có chỗ xu hướng. Sư tử rống là đạo tràng vì sức vô úy nên vô sở úy. Pháp bất cộng là đạo tràng vì chẳng có lỗi lầm. Tam minh là đạo tràng vì chẳng còn chướng ngại. Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng vì thành tựu nhất thiết chủng trí". Như vậy hai chữ "việc Chùa" (Đạo tràng) hiểu đúng lời Sư Cụ, nó chính là sự quán chiếu tâm hàng ngày của mình, chứ chẳng phải là những công việc, sinh hoạt, sự sống đơn thuần. Đó cũng là chân nghĩa mà Ngài Duy Ma Cật đã dạy…
Hôm đó, khi tôi trở về, Sư Cụ dường như biết cả mọi chuyện, nên mới gọi tôi lại, rồi nhỏ nhẹ nói:
- Con ở xa về mà biết đường đến chùa để làm công đức, đó là điều quý hiếm lắm. Không phải mấy ai cũng có và biết nắm bắt được cái cơ duyên đó. Nhiều người nhà kề cận chùa thật đấy nhưng cả đời họ chẳng hề nghĩ tới chuyện bước chân vào chùa để thắp một nén hương cúng Phật; Cũng có người đến chùa nhưng chỉ muốn chứng tỏ mình trước mọi người; cũng lại có người đến chùa vì cầu tài, cầu lộc; vì thăng quan, tiến chức; rồi cũng lại có người vì chuyện nọ, chuyện kia… nghĩa là tâm của mỗi người đến chùa đều mang theo những chủ đích khác nhau, do vậy những chuyện xảy ra như hôm nay, thật là khó tránh khỏi. Người thực tâm đến chùa thời nay thật là ít ỏi. Nhưng những người muốn mang sự nhiễu nhương ngoài đời vào chùa, rồi muốn chùa trở thành nơi sinh hoạt ngoài đời thì lại rất nhiều. Nếu con là người thực tâm muốn tìm Đạo, học Đạo thì con phải biết nhẫn và có lòng từ bi, bởi có từ bi con mới nhìn thấy, mới cảm được những sự khổ đau những người xung quanh con và của chúng sanh muôn loài con ạ; Có nhẫn, con mới có thể dễ dàng vượt qua được những chướng duyên trong đời. Người thực Tu là người dám làm những việc người khác không thể làm; dám gánh chịu những chuyện mà người khác lẩn tránh; và có thể chịu đựng được những chuyện mà người đời không thể chịu đựng. Hôm nay có nhiều người đến đây làm công đức, nhưng thực là công đức họ làm được thì rất ít, trái lại họ đánh mất công đức của chính mình lại quá nhiều. Con có biết công đức từ đâu mà có không?
Chị bạn tôi bảo: Bữa đó đang chăm chú nghe Sư Cụ nói Pháp, đột nhiên Sư Cụ dừng lại hỏi, vậy là tôi ngồi thộn một đống. Sư Cụ mới nhìn tôi, rồi tủm tỉm nói:
Công đức phải tu hành mới có được con ạ. Ngày xưa có người hỏi Tổ Huệ Năng: “Để tử nghe Tổ Đạt Ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, vua Võ Đế liền hỏi: “Trẫm một đời cất chùa, độ tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì?”. Khi ấy Tổ Đạt Ma bảo: “Thật không có công đức”. Vậy con có biết Tổ Huệ Năng khi ấy nói gì không?
Chị bạn tôi bảo: Sư Cụ thấy tôi ngẩn người, nên bèn cười, rồi nói tiếp: Tổ nói: “Thật không có công đức. Võ Đế tâm tà không biết chánh pháp, cất chùa, độ tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong pháp thân, không phải tu phước mà được”. Tổ nói về công đức như thế này: “Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức.  Trong tâm khiêm hạ là Công, bên ngoài hành lễ phép là Đức. Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Không lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức, tâm tức không có khinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không Công, tự tánh hư vọng, không thật tức tự không Đức, vì ngô ngã, tự đại thường khinh tất cả. Này Thiện Tri Thức mỗi niệm không có gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức. Này Thiện Tri Thức, công đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí, cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau”. Con trở về ta không có gì tặng con nên ta tặng con hai câu này làm hành trang tu đạo:
Càng buông bỏ dưới chân này
Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao.
 Bữa ấy tôi hỏi Sư Cụ về ý nghĩa hai câu kệ trên, nhưng Sư Cụ chỉ cười, rồi nhỏ nhẹ nói:
Y Pháp Bất Y Nhân
Y Nghĩa Bất Y Ngữ
Y Trí Bất Y Thức
Y Liễu Nghĩa Bất Y Bất Liễu Nghĩa.
Nếu con tu đúng pháp tự con sẽ biết câu trả lời.
19.01.2013 Huệ Tâm


Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

Y Pháp Bất Y Nhân - Phần I

"Việc chùa thì nhiều, lại toàn việc không tên thôi, có làm quanh năm suốt tháng cũng chẳng hết. Vậy nên con cứ tuỳ hỉ, tuỳ duyên, thấy giúp được việc gì, hợp với mình thì con làm..."




Huệ Tâm


Một chị bạn quen tôi mới về phép Việt Nam qua, gặp chị, tôi hỏi thăm:
- Về phép vui không?
Chị đáp:
- Vui! Nhiều chuyện nữa là đằng khác. Tôi về đúng vào dịp tu Phật thất, vậy là làm thủ tục „nhập gia“ xong, tôi đăng ký lên chùa làm công đức và xin tham gia khoá Tu liền.
- Vậy là nhiều chuyện để kể rồi. – Tôi hỏi chị bạn.
- Dĩ nhiên rồi. Chị bạn tủm tỉm cười, đáp. – Chỉ riêng chuyện tôi đăng ký tham gia Pháp sự thôi cũng đủ chuyện để nói rồi. Nhưng cũng nhũng nhiễu lắm. Ông biết không, mặc dù tôi đã trút hết tất cả bộ cánh bên này và khoác lên mình bộ cánh nhôm nhoam nhất để tránh sự nhòm ngó của mọi người, vậy nhưng kiểu gì thì kiểu mình vẫn bị phát hiện và bị đả cho tơi bời.
Tôi đùa:
- Nghe bà kể hệt như những Action trong truyện trinh thám không bằng.
Chị bạn tôi gắt:
- Giời ạ! Ông có về phép đâu mà biết. Tôi cứ nghĩ tham gia Pháp sự thì ai cũng như ai, vậy nhưng cũng rách việc ra phết. Ông biết tính tôi đấy, làm việc chung, lại là việc công đức, nên chỗ nào kham được là tôi chẳng nề hà gì. Vậy nhưng khi cánh Phật tử kỳ cựu nhìn thấy tôi mon men tới vùng họ „quản lý“, vậy là những đôi mắt „mang hình viên đạn“ ngay lập tức đã „lập loè“ và muốn „nhả đạn“ rồi. Nhưng tôi mặc. Vì trước khi „đăng đài“ tôi đã hỏi Sư Cụ rồi. Sư Cụ bảo tôi:
"Con ở nơi xa về, biết đến lễ chùa là quý lắm rồi, lại có dịp được tham gia Phật sự, làm công đức cho chùa, lại càng quý hoá hơn. Việc chùa thì nhiều, lại toàn việc không tên thôi, có làm quanh năm suốt tháng cũng chẳng hết. Vậy nên con cứ tuỳ hỉ, tuỳ duyên, thấy giúp được việc gì, hợp với mình thì con làm".
Nghe Sư Cụ nói cũng thấy hoan hỉ. Lúc tôi đến là đúng giờ ăn trưa, mấy đứa bạn bảo: Thôi, cứ ra đại chỗ bán đồ ăn, xin một „chân“ bưng bê cũng được. Vậy là tôi sà vào mấy gian hàng bán đồ ăn. Nhưng chỉ vừa buột miệng hỏi, thì đã bị mấy „quản hạt trưởng“ chối đây đẩy. Bà thì bảo: Chỗ này đủ người rồi; Người thì ra chiều khuyên, rồi lấy tay trỏ trỏ, giọng nghe như lời hăm doạ: Đừng nghe! Chỗ này, chỗ này, chỗ kia… có người đứng rồi. Đừng có dẫm lên chân người khác nghe! Phiền lắm đó! Bị mấy nơi thẳng thừng „bác đơn“, tôi thấy mặt mũi râm ran, máu trong người đã sôi lên xình xịch rồi. Nhưng chợt nhớ tới lời Sư Cụ dặn là việc chùa thì nhiều, và tuỳ hỉ và tuỳ duyên mà làm, nên tôi ngậm ngùi sang mấy nơi khác hỏi. May quá, thấy một bàn bán đồ ăn còn trống, trong khi đó các Phật tử thì ùn ùn kéo đến, đứng chờ mua đồ. Thấy vậy nên tôi bèn bước đến, tính hỏi một bà bên cạnh, xem mình có thể vào đó cùng bán đồ cho Phật tử không? Ai dè tôi vừa há miệng hỏi, đã bị bà nọ đáp một câu cụt lủn:
- Chỗ này không có trống.
Chị bạn tôi bảo: Ông biết không? Mấy nơi đều bị „bác đơn“ vô cớ, lần này lại bị „bác“  tiếp, nên tôi hơi bực, bèn hỏi lại, giọng lúc ấy chắc cũng hơi nóng.
- Chỗ này vẫn trống, lại nhiều người muốn mua đồ, sao chị bảo có người rồi? Không nhẽ làm Phật sự giúp chùa mà cũng phải giữ chỗ à?
Thấy tôi nói vậy, mọi người quay bổ sang nhìn tôi như thôi miên. Bà nọ đang sắp đồ, bèn đặt huỵch bát đồ ăn xuống bàn, quay sang phía tôi nói như thẩm cung.
- Cô là ai? Ở đâu đến đây? Chỗ này không có phận sự của cô.
Chị bạn tôi bảo: Ông nghe có điên không? Mình tình nguyện đến giúp Phật sự, lại bị thẩm tra cả lai lịch, xuất xứ. Thấy vậy mặt tôi nóng bừng. Tôi cũng hỏi lại.
- Chị là ai? Lấy quyền gì để hỏi tôi. Chỗ này tôi thấy trống, vì lịch sự nên tôi mới hỏi chị. Chị đến đây làm công đức, tôi cũng đến làm công đức. Giữa tôi và chị có gì khác biệt?
Tôi nói chắc lúc ấy cũng hơi to, nên mấy người người Phật tử đứng gần, người thì tủm cười, người thì khẽ kéo tay áo tôi, nói nhỏ: Bỏ đi cô ơi! Đến chùa làm công đức mà cãi cọ thế, thì chẳng còn công đức gì nữa đâu.
Thấy mấy người xì xào, bà nọ bèn quay sang, nói sẵng:
- Mấy người nói móc gì thế? Công đức có hay không tôi tự biết, không cần các người dạy. Còn cô, ngữ cô thì làm được cái gì mà tinh vi? Cô định ma mới bắt nạt ma cũ à? Đừng mơ…
Thấy câu chuyện tới hồi gay cấn, tôi hỏi chị bạn:
- Thế bà nói sao?
Chị bạn tôi nhìn tôi một hồi, rồi lắc đầu:
- Đúng là đàn ông. Người ta gọi tôi là „ma mới“ ông không nghe thấy à?
Tôi cười, đáp:
- Khi tâm sân nổi lên, lúc ấy chả là ma thì là gì?
Chị bạn tôi cãi:
- Chuyện đó ai mà chả biết. Nhưng vấn đề tôi muốn nói là bà kia bảo tôi là „ma mới“ và bà ta là „ma cũ“ kìa.
Tôi đùa:
- Nhìn mặt bà lạ hoắc, ai mà chả đoán ra bà là „ma mới“?
Chị bạn tôi nguýt một cái dài sượt, rồi quay sang nói với chồng:
- Sao các ông giống nhau thế? Chuyện gì cũng đùa cợt. Chuyện gì cũng dễ dàng cho qua được. Tôi thừa biết ý bà ta muốn nói gì, nhưng điều tôi muốn nói: Cùng là Phật tử với nhau, cùng đến chùa tham gia làm công đức, tại sao không thể cùng nhau hoan hỉ, mỗi người một việc, miễn sao công việc trôi chảy là được. Mà lại nơi này nhận chỗ, nơi kia xí chỗ? Làm như thế chẳng thà biến sân chùa thành khu chợ à? Chưa kể bà ta gọi tôi là „ma mới“, cũng không sao, vì lúc ấy tôi điên lên, chắc chắn cũng chẳng khác ma là bao, nhưng bà ta cũng ví mình là „ma cũ“, vậy không lẽ đến giúp chùa làm Pháp sự toàn là các ma thôi à? Hai lão đã hiểu chưa?
- Ờ… tôi ngẩn người đáp.
Thấy vậy chị bạn tôi bèn nói tiếp:
- Ông với lão nhà tôi giống hệt nhau. Pháp sự thì chẳng chịu tham gia; việc công đức cũng chẳng chịu làm. Suốt ngày chỉ ở nhà, làm sao mà hiểu được chuyện Đạo.
Tôi hỏi đùa chị bạn:
- Thế bữa đó bà có „đọ súng“ không?
Chị bạn tôi bật cười, mắng:
- Ông bị dở hơi à? Nơi ấy là chùa chứ đâu phải chợ đâu mà „đọ súng“? Nhưng bữa đó thấy đôi bên lời qua, tiếng lại, chắc là to tiếng, rồi không biết tình cờ, hay ai nói, nên Sư Cụ bèn đi đến.
Tự nhiên thấy mấy người Phật tử giãn hết ra, rồi có mấy người chắp tay, chào Sư Cụ, nên tôi vội quay lại thì Sư Cụ đã ở trước mặt rồi.
Thấy tôi, Sư Cụ bèn nhoẻn cười, nhỏ nhẹ nói:
- Con ra bàn tiếp tân đi. Đằng đó đang thiếu người. Ở đây đã có mấy chị Phật tử quen việc rồi. Cứ để các chị thong thả làm.
Nghe Sư Cụ nói, tôi tỉnh cả người ông ạ. Tôi vội chắp tay, vái Sư Cụ rồi ra phía tiếp tân, để phụ tiếp nước. Chỗ đó chiến sự cũng nóng bỏng ông ạ.
Tôi trêu chị bạn:
- Ở chùa mà các bà ví như chiến sự, nên chỗ nào cũng kêu nóng bỏng cả.
Chị bạn tôi lại vênh mặt, cãi.
- Đàn ông các ông thì biết chuyện gì. Tôi gặp Sư Cụ đã một vài lần, thấy Sư Cụ hiền khô. Vậy nhưng bữa đó đứng tiếp nước một hồi, mà nghe các Phật tử dèm pha về Sư Cụ như tằm ăn rỗi.
- Nói xấu Chư Tăng là tạo nghiệp đó bà? Chồng chị bạn từ đầu chỉ ngồi gà gật nghe chuyện, thấy vợ nói vậy, bèn nhổm lên nói.
Chị bạn tôi quay sang, nguýt chồng, nói:
- Ông không phải nhắc. Tôi đâu có điên mà đi nói xấu Chư Tăng. Nhưng bữa đó, nghe những người đến giúp Pháp sự, người thì nói Sư Cụ nhìn thế thôi, nhưng dữ lắm; Kẻ lại bảo: Sư Cụ tu Thiền nhưng nóng như lửa. Hễ làm chuyện gì không đúng hay không kịp, hoặc ai đó chậm hiểu là bị Sư Cụ mắng tới tấp luôn. Nhiều người còn bảo: Sư nóng tính như thế thì làm sao thuyết pháp…v.v…?
Tôi hỏi chị bạn:
- Vậy bữa đó bà nói sao?
Chị bạn tôi lại vênh mặt, mắng:
- Ông cũng hâm nốt. Ai nói mặc ai. Bước chân vào tới chùa, mà còn đàm tiếu người nọ, người kia, rồi chán chê chuyện người lại lôi cả Chư Tăng ra đàm tiếu.
Chồng chị bạn nhìn vợ tưng tửng nói:
- Cũng phải có lửa mới có khói chứ?
Chị bạn tôi nguýt chồng:
- Ông chỉ được cái võ đoán. Khuyên ông năng đi chùa để học Đạo thì ông cứ chối đây đẩy. Về phép mấy lần, bảo ông đến chùa, giúp làm Pháp sự, ông cũng không đến. 
(còn tiếp)

Tu Bát Quan Trai - Tập Rải Tâm Từ

"Tu chính là Sửa. Sửa những sai quấy trong tâm, biến những sai quấy ấy thành những điều chân-thiện. Người người tu thiện, nhà nhà tu thiện – thế giới xung quanh chúng ta sẽ là thế giới của sự an lạc..."






Nhân ngày Vía Quán Thế Âm đản sanh 30.03.2013 (nhằm ngày 19.02.2013 Âm lịch), chùa Phật Huệ đã tổ chức khóa Tu Bát Quan Trai hai ngày cho các Phật tử. Đây là khóa tu học đầu tiên của năm 2013 và đã được các Phật tử mọi miền trên nước Đức về chùa tu học khá đông đảo.




Đúng 14:00 giờ ngày 30.03.2013, các Phật tử đã tề tựu trang nghiêm nơi Chánh Điện rồi cùng nhau niệm vang hồng danh Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật để cung nghinh Thượng Tọa Thích Từ Trí cùng Tăng Đoàn chùa Phật Huệ vào Chánh Điện khai lễ khóa Tu Bát Quan Trai.

Điểm đáng ghi nhận trong những khóa Tu học tại chùa Phật Huệ gần đây và trong khóa Tu Bát Quan Trai lần này là số lượng Phật tử từ mọi trang lứa tề tựu về chùa Tu học ngày thêm một đông đảo. Đây là một tín hiệu rất đáng vui mừng, bởi nó không chỉ chứng tỏ Phật pháp đã, đang và sẽ tiếp tục trở thành một sinh hoạt không mang tính tâm linh đơn thuần, hơn thế nó đã giúp cho nhiều tầng lớp, thế hệ, trang lứa nhận chân được những giá trị đích thực của Phật pháp, và đem áp dụng vào cuộc sống thường nhật, nhờ đó mà cuộc sống của mỗi người, mỗi nhà thêm an lạc, bình yên, hạnh phúc, xa hơn sẽ tiến tới giác ngộ và giải thoát. 

Trong buổi lễ khai mạc, Thượng Tọa Thích Từ Trí và Tăng Đoàn vô cùng hoan hỉ ghi nhận và tỏ lời ngợi khen về sự quan tâm, những nỗ lực – sự giác tâm không ngừng của các Phật tử đối với những pháp sự của chùa Phật Huệ nói chung và Phật pháp nói riêng.
Vì số lượng Phật tử tham gia tu học lần này khá đông, và có nhiều Phật tử lần đầu tham dự lễ Thọ Bát Quan Trai, do vậy Thượng Thích Từ Trí đã dành ra hơn nửa giờ đồng hồ để giản lược về xuất xứ, ý nghĩa cao cả và tầm quan trọng của lễ Thọ Bát Quan Trai đối với hàng Phật tử tại gia, qua đó giúp cho các Phật tử nhận chân được những việc chân quý mà mình đang làm.

14:45 giờ, Thượng Tọa Thích Từ Trí đã làm lễ Truyền giới Bát Quan Trai cho các Phật tử. Phật tử Huệ Phú đã đại diện cho các Phật tử đọc lời tách bạch, kế đó các Phật tử đã cùng nhau cung kính đón nhận lễ Truyền giới Bát Quan Trai.
Sau lễ Truyền giới Thượng Tọa Thích Từ Trí đã có một thời pháp với chủ đề: Niệm Rải Tâm Từ dành cho các Phật tử. Tâm từ là gì? Tại sao người Phật tử phải luôn Rải Tâm Từ? Đối tượng Rải Tâm Từ là những ai? Tâm Từ khác Tâm luyến ái ở điểm nào?...v.v… Những vấn đề này đã được Thượng Tọa Thích Từ Trí tường tận giảng giải nhằm giúp cho các Phật tử hiểu rõ và quán chiếu cụ thể hơn về những việc làm của chính mình. Đây cũng là những chủ đề được đem ra bàn thảo trong buổi pháp đàm đêm 30.03.2013.
 

Sau Phần Truyền Giới và Thuyết Giảng, Thượng Tọa Thích Từ Trí cùng Tăng Đoàn đã hướng dẫn các Phật tử tụng kinh Phổ Môn để cùng nguyện cầu cho Thế giới hòa bình, dân sinh an lạc…


Buổi Pháp Đàm được diễn ra vào lúc 19:30 giờ ngày 30.03.2013. Thượng Tọa Thích Từ Trí đã khái lược lại những điểm quan trọng trong bài Pháp Niệm Rải Tâm Từ, qua đó giúp các Phật tử có thêm cơ sở để cùng đào sâu, suy luận và bàn thảo, nhằm tạo thêm thông hiểu cũng như đúc kết những kinh nghiệm cho riêng mình, đem áp dụng vào cuộc sống tu hành của người tại gia. Nhiều câu hỏi (nghi vấn) quan trọng và khá sâu sắc cũng được đặt ra. Ví thử: Người Phật tử nên nguyện làm Bồ Tát hay nguyện làm Phật? Bởi có ý kiến nhận định: Nếu vãng sanh về Tịnh Độ, rồi làm Phật, tất sẽ không còn cơ hội để hoằng Pháp, độ sanh? Ngược lại: Nếu người Phật tử phát nguyện làm Bồ-tát, tất cơ hội để độ sanh sẽ lớn hơn rất nhiều? Một vấn đề khác cũng được nêu ra: Một người tâm tà, chuyên làm ác, khi gặp nạn, Phật và Bồ-tát có cứu độ không? Nếu có thì nguyên nhân của sự cứu độ là gì? Sự cứu độ đó có bất công bằng không? Vấn đề kế tiếp: Người Phật tử nên nghĩ và quán chiếu thế nào về cái chết? (đặc biệt khi xảy ra với những người thân của mình) Làm thế nào để có thể giúp (hướng) cho những người thân qua đời nhận diện rõ về sự vô thường, từ đó giúp họ vượt qua những kiến chấp để có cơ hội vãng sanh, hay được sanh về những cõi lành? Khi tu hành (niệm Phật; tu thiền) gặp những mộng cảnh (lành-dữ) người Phật tử nên quán chiếu thế nào để không bị những huyễn cảnh đó lôi cuốn, hay ràng buộc?...v.v… 


Sau mỗi ý kiến được đặt ra, và được các Phật tử tranh luận, Thượng Tọa Thích Từ Trí đều có sự đúc kết, nhằm giúp các Phật tử hiểu tường tận hơn về những hạnh nguyện của Phật, Bồ-tát cũng như những chướng duyên, những kiến chấp của các Phật tử trong khi tu tập. Qua đó các Phật tử sẽ thấy, vững tin hơn vào những hạnh nguyện của chính mình.
Trong phần Thiền Tập vào lúc 21:00 giờ cùng ngày, và buổi Công Phu Sáng diễn ra lúc 5:30 giờ ngày 31.03.2013, các Phật tử đã được Thượng Tọa Thích Từ Trí hướng dẫn tường tận về cách thức ngồi thiền. 


Theo sự chỉ dạy của Thượng Tọa Thích Từ Trí, chúng ta có thể khái lược như sau: để những giờ tu thiền đạt kết quả như ý nguyện, người Phật tử cần phải nắm vững những kiến thức cơ bản, nhưng quan trọng hơn cả là phải biết buông xả. Tư thế ngồi thiền tùy thuộc vào trạng thái cơ thể và sức khỏe mỗi người, mà chọn cho mình một tư thế và thời gian thích hợp: Ngồi Kiết già; Bán già; Hay ngồi tự do. Thời gian ngắn-dài tùy thuộc sức khỏe (30-45-60 phút). Khi ngồi thiền lưng phải thẳng (không căng cứng), đầu hơi cúi xuống (không cúi gập), tầm nhìn của mắt chừng một mét, hai mắt nhắm hờ (để tránh hôn trầm), miệng khép hờ; bàn tay mặt duỗi thẳng, đặt hờ trên bàn tay trái, hai ngón cái đối nhau, hai bàn tay để ngang rốn. Khi ổn định tư thế ngồi, hít ba hơi thật sâu vào bằng mũi. Mỗi khi hít vào, quán tưởng mình đang hít vào cơ thể tất cả những nỗi buồn lo, phiền não, những đớn đau… của những người thân, những người xung quanh và của chúng sanh muôn loài, rồi dùng Tâm Từ của mình chuyển hóa tất cả những buồn lo, phiền não và những đau khổ đó thành sự tịnh khiết, an lành và từ từ thở ra bằng miệng, (thở  nhẹ, không thô ồn) đồng thời quán tưởng mình đang mang tới mọi người những niềm vui, an lạc và hạnh phúc... Sau phần khởi động, các Phật tử sẽ dùng ý quán hơi thở nơi chóp mũi, bằng cách hít vào-thở ra đếm 1; cứ vậy hít vào-thở ra cho đến 10, rồi lại đếm từ 10 ngược trở về 1. Phương pháp này giúp loại bỏ nhanh chóng những tạp niệm xung quanh, hay đang dấy khởi trong tâm và cũng tránh bị hôn trầm. Nhờ đó mà công phu tu thiền trong suốt buổi thiền tập cũng dần dần được cải thiện và tăng trưởng…
 
Trong các khóa tu học gần đây, công phu Niệm Phật cũng được BTC chùa Phật Huệ hết sức chú trọng và đã đạt được những kết quả khả quan, đặc biệt trong các khóa tu Phật thất. Thượng Tọa Thích Từ Trí giải thích: Nếu ngồi niệm Phật một mình, thường rất dẫn đến bị hôn trầm, hay tâm bị loạn, nhưng nếu cộng tu (nhiều người) cùng ngồi niệm Phật, thì sự cộng hưởng của tiếng niệm Phật sẽ mang lại kết quả hết sức vi diệu. Điều vi diệu này các Phật tử trong khóa tu học Bát Quan Trai đã được thực chứng trong suốt một giờ niệm Phật từ 9:00-10:00 giờ buổi sáng ngày 31.03.2013.

Sau phần công phu niệm Phật, các Phật tử đã cùng với Chư Tăng tụng kinh cầu siêu và Cúng hương linh.

Vào lúc 12:00 giờ các Phật tử đã được hướng dẫn nghi thức Thọ Trai và kế đó cùng với Tăng đoàn thực hành niệm Phật Kinh hành.
Đúng 14:00 giờ ngày 31.03.2013 Thượng Tọa Thích Từ Trí đã làm lễ Xả Giới cho các Phật tử tham gia khóa tu Bát Quan Trai. 

Trong phần kết thúc ưu-khuyết khóa tu học, Thượng Tọa Thích Từ Trí đã thay mặt BTC chùa Phật Huệ tán thán sự nỗ lực tu tập của các Phật tử trong suốt 24h trì giới. Thượng Tọa cũng tán thán sự tận tâm, đóng góp của Ban Trai Đường, giúp cho lễ Thọ Trai thêm một hoàn mãn. Thượng Tọa Thích Từ Trí cũng khuyến khích các Phật tử khi tham gia các khóa tu học nên mạnh rạn hơn nữa trong việc trao đổi ý kiến cũng như kiến thức tu học của bản thân. Nhờ đó sẽ tạo nên động lực tích cực, giúp cho các bạn đồng tu có được cơ hội để học hỏi và đúc kết kinh nghiệm tu học cho bản thân. 

Tu chính là Sửa. Sửa những sai quấy trong tâm, biến những sai quấy ấy thành những điều chân-thiện. Người người tu thiện, nhà nhà tu thiện – thế giới xung quanh chúng ta sẽ là thế giới của sự an lạc.  Muốn vậy mỗi Phật tử chúng ta hãy ráng và cùng nhau Rải Tấm Lòng Từ…

 Đó cũng chính là hạnh nguyện cao cả của Quán Thế Âm Bồ-tát.
Khóa Tu Bát Quan Trai đã kết thúc hoàn mãnh vào lúc 15:30 ngày 31.03.2013.
Ghi nhận từ khóa Tu BQT 30-31.03.2013 – Thiện Lợi
  
Để xem hình lớn, xin vui lòng clicken 2 lần vào bức ảnh