Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Niệm Ác Và Người Thù


"Xa hơn chúng ta xét về lý nhân quả: Sở dĩ có niệm ân oán với nhau, đều có nguyên nhân. Một người chưa quen biết, mới gặp nhau là ta có cảm tình ngay và muốn giúp đở tất cả những gì họ muốn cần. Trái lại, cũng một người chưa từng quen thuộc vừa gặp mặt liền sanh bực bội, không muốn nhìn họ, và từ khước mọi giúp đở, mặc dù họ cần đến ta..."



Trong Tăng Chi Bộ Kinh (VII, VI-60), Phật nói: Người thù địch có bảy điều kiện mong cho kẻ thù với mình:
 
1. Mong cho kẻ thù với mình nhan sắc xấu xí.

2. Mong cho kẻ thù với mình ngủ không được.

3. Mong cho kẻ thù với mình không được lợi ích, thường tổn giảm.

4. Mong cho kẻ thù với mình bị phá sản.

5. Mong cho kẻ thù với mình không được danh vọng.

6. Mong cho kẻ thù với mình không được bạn bè.

7. Mong cho kẻ thù với mình chết đọa đường dữ.

Bình:

Xét bảy điều Phật nói trên có đúng với tâm lý chúng ta không? Nếu ai là người mình thù địch thì mình đâu thích họ có sắc đẹp mà muốn họ xấu xa. Và muốn họ luôn luôn bất an mất ngủ, muốn cho họ tổn hại, mất mát tài sản danh vọng, nhẫn đến cho bạn bè lánh xa họ. Cuối cùng muốn cho họ khi chết bị đọa địa ngục. 
 
Những điều mong muốn trên là quan niệm trả thù. Tuy mình không dùng hành động độc ác với người thù, nhưng lúc nào cũng muốn cho người thù của mình gặp nhiều tai biến họa lụy v.v... 
 
Những quan niệm như thế xét theo thói thường thì miễn bàn, nhưng xét sâu về đạo lý là một điều tổn hại rất lớn. Tại sao? Trước xét việc gần gũi nhất là ngay tâm niệm mình: Một khi muốn cho người ta khổ. Khi khởi niệm muốn đó lòng mình có vui chăng, hay chính cái niệm đó làm cho lòng mình bức rức, cảm thọ khổ sở bất an? Ðó là chưa nói đến gặp trường hợp trái ngược, mình muốn người ta khổ mà trái lại họ được vui, thì tâm niệm chúng ta lúc đó thế nào? Muốn cho người ta mất mà họ vẫn được, muốn cho người ta xấu, mà họ vẫn tốt v.v... Chúng ta sẽ bực bội đến đâu? Thế nên những mong muốn ấy đều không lợi lạc mà tổn thương tâm niệm chính mình. 
 
Xa hơn chúng ta xét về lý nhân quả: Sở dĩ có niệm ân oán với nhau, đều có nguyên nhân. Một người chưa quen biết, mới gặp nhau là ta có cảm tình ngay và muốn giúp đở tất cả những gì họ muốn cần. Trái lại, cũng một người chưa từng quen thuộc vừa gặp mặt liền sanh bực bội, không muốn nhìn họ, và từ khước mọi giúp đở, mặc dù họ cần đến ta. Những điều đó không có chi lạ, là do chúng ta với những người ấy đã tạo "ân" hay "oán" thuở quá khứ... Còn rất nhiều khía cạnh khác, đây chúng tôi chỉ nêu vài trường hợp điển hình mà thôi. 
 
Vậy, muốn cho tâm được mát mẻ, thư thới y cứ lời Phật dạy, chúng ta phải xem oán thân bình đẳng, nghĩa là dứt hết niệm "ân" và "oán". Vì người ân giúp ta chính là những người ta từng giúp họ, bây giờ họ giúp lại ta, người oán hại ta là ta đã từng gây khổ đau cho họ, nên bây giờ họ đối xử tệ bạc với ta. Việc ấy chỉ trong vòng vay trả. Hơn nữa, phải quán tất cả mọi người đều là bà con thân thuộc của chúng ta, nếu không đời này cũng nhiều đời trước. Dù họ có lỗi lầm chút ít ta nên tha thứ, đâu nỡ thù ghét họ. Hiểu như vậy thì ta dứt được niệm ân và oán. Nhờ dứt niệm ân oán nên sợi dây ân oán bị cắt đứt. Khi ân oán dứt tâm ta không an tịnh là gì? 
 
Lục Tổ dạy: "Thương ghét chẳng bận lòng, nằm dài duỗi chân ngủ". Vậy ta muốn ngủ ngon giấc thì phải dứt niệm "oán thân". 

Hoà Thượng Thích Thanh Từ




Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Lấy Giới Làm Thầy


Chúng ta sinh hoạt hàng ngày rất dễ bị phạm đến giới luật. Vì chúng ta ngu si, nghiệp chướng nặng nề nên mỗi ngày hoặc nhiều hoặc ít, hoặc nặng hoặc nhẹ đều có vi phạm giới luật đã thọ. Vì thế mỗi người cần phải hết sức cẩn thận, luôn xét lại lời nói, cử chỉ và hành động của chúng ta. Trong từng phút từng giây và từng ý nghĩ của chính mình, thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối, chúng ta mới có thể diệt trừ tội lỗi, tâm trở nên trong sạch...
Đại Sư Liên Trì 
 
Đức Phật lúc sắp Niết Bàn dặn dò đệ tử sau khi Ngài nhập Niết Bàn cần lấy giới làm thầy, chính là cần đệ tử mình nơi mọi cử chỉ hành vi trong sinh hoạt hàng ngày thường, đâu đâu cũng phải lưu tâm cẩn thận. Tùy thời quán chiếu lời nói và hành động chính mình, có trái phạm vào giời luật của Phật hay không. Luôn kiểm điểm lỗi mình, ngày ngày phải sám hối tội lỗi. Có được giới hạnh, tự nhiên sinh ra định lực, không đến nỗi theo duyên lưu chuyển, hoặc bị ảnh hưởng trần cảnh bên ngoài. Phải có định lực mới phát sinh trí tuệ, có thể phân biệt rõ ràng phải trái thiện ác.

Giới chính mình không phải giới người khác.
Người học Phật phải nhớ rằng, giới là để răn nhắc cho mình. Dùng giới luật để sửa đổi các thứ tham sân si không đúng của chính mình, không phải lấy giới để răn dạy người khác hay để phê bình người khác phạm giới, hoặc chỉ trích họ không đúng như pháp. Áp dụng giới luật để sửa đổi hành vi sai quấy của mình, để ngày càng gần với Thành đạo. Nếu đem giới luật để dạy hay chỉ trích người khác, trong vô hình đã tạo thêm khẩu nghiệp, tăng trưởng ngã mạn. Đối với sự tu hành mình không có thêm lợi ích, lại còn tạo thành nhiều thứ chướng ngại.
Giới gốc Vô Thượng Bồ Đề
Kinh Hoa Nghiêm nói: ”Giới là gốc Vô thượng Bồ Đề”. Giữ một phần giới luật được một phần thanh tịnh, thành tựu một phần đạo nghiệp; giữ mười phần giới luật được mười phần thanh tịnh, thành tựu mười phần đạo nghiệp.
Căn bản của việc học Phật
Căn bản của việc học Phật chính là Giới, Định, Tuệ. Kinh Lăng Nghiêm viết: ”Nhiếp tâm làm giới, nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ. Đó gọi là Tam Vô Lậu học”. Vì thế, người học Phật cần phải khéo léo ở nơi Tam vô lậu học mà hạ thủ công phu.
Tam vô lậu học
Làm sao trong cảnh đời ô trược này tâm không bị ngoại cảnh chuyển? Như như bất động mà lại chuyển lại ngoại cảnh? Hóa phiền não làm Bồ Đề, hóa lửa đỏ làm sen hồng! Đây phải cần công phu, phải cần Giới Định Tuệ nơi Tam vô lậu học.
Nền tảng của sự tu hành
Giới luật là nên tảng của đời sống tu hành. Như nhà lầu nhiều tầng nhưng móng không chắc, lại xây cao thì về sau bất cứ sự chống đỡ nào cũng là uổng công vô ích, không sao chánh khỏi sụp đổ. Vì thế, Phật dạy chúng ta phải lấy “giới làm thầy” Tùy lúc, tùy nơi xem xét lại thân tâm để kiểm khảo lời nói và cử chỉ, hành động của chính mình. Hãy nhớ thôi thúc và tu sửa hành vi của mình cho được ngay thật, mới xứng đáng là đệ tử của Phật
Trì giới
Khi niệm Phật mà tâm tư tán loạn, vọng tưởng tới tấp, tâm không được tỉnh sáng, là do không giữ đúng giới luật, sinh hoạt hàng ngày thường hay phạm giới. Phải biết có giới mới có định, có định mới có tuệ. Trong tam vô lậu học, giới được dùng làm cơ sở ban đầu. Giới luật là căn bản của tất cả người tu người tu hành. Không có giới luật, sự nghiệp tu hành không thể thành tựu. Vì thế, chúng ta phải khéo léo lấy giới làm Thầy. Đem giới luật của Phật làm mực thước và khuôn mẫu cho sự hành trì trong sinh hoạt của chúng ta.
Thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối
Chúng ta sinh hoạt hàng ngày rất dễ bị phạm đến giới luật. Vì chúng ta ngu si, nghiệp chướng nặng nề nên mỗi ngày hoặc nhiều hoặc ít, hoặc nặng hoặc nhẹ đều có vi phạm giới luật đã thọ. Vì thế mỗi người cần phải hết sức cẩn thận, luôn xét lại lời nói, cử chỉ và hành động của chúng ta. Trong từng phút từng giây và từng ý nghĩ của chính mình, thường sinh tâm hổ thẹn và sám hối, chúng ta mới có thể diệt trừ tội lỗi, tâm trở nên trong sạch.
Hữu lậu
Hữu là có, lậu là phiền não làm cho chúng sinh rơi vào ba đường ác. Hữu lậu là pháp phiền não làm cho chúng sinh rơi vào ba đường ác.
Điều mà người học Phật rất sợ chính là hữu lậu. Việc làm nhọc nhằn, khổ sở, tổn hao mồ hôi và máu huyết cũng không dễ dàng tích lũy được công đức và phước báu. Nhưng vì tham, sân, si và vô minh nghiệp chướng của chính mình, nên trong sinh hoạt ngày thường, không cẩn thận đã phạm vào giới luật. Vì vậy, tất cả công đức và phước báu đã phạm vào giới luật. Vì vậy, tất cả công đức và phước báu đã tạo theo đó mà mất hết.
Phạm giới thành hữu lậu
Người phạm giới là hữu lậu, giữ giới là vô lậu. Giới luật chính là nhân quả. Dù bất cứ lý do gì, khi đã phạm vào giới luật chính đã phạm vào nhân quả. Nhất định sẽ có quả báo không tốt. Vì thế, khi học Phật, chúng ta nhất định phải khéo léo; khi tu hành phải hết sức cẩn thận. Thường luôn quán chiếu và xét lại chính mình. Khéo léo tuân theo giới luật để hạ thủ công phu, đừng để phước báu tu hành nhọc nhằn khổ sở biến thành công đức hữu lậu.
Kiểm nghiệm lại lỗi lầm
Thân thể chúng ta sinh ra bệnh tật, trong sinh hoạt luôn gặp phải trắc trở hoặc có lúc công việc không được hài lòng. Khi sự việc không như ý phát sinh, kẻ ngu chỉ biết than thân trách phận, oán trời đất, trách cứ người khác, mượn cớ này nọ để che đậy sai sót của mình. Song người có chí cho rằng nhất định mình có sai lầm việc gì, nhất định đã vi phạm giới luật, đã vi phạm vào nhân quả, mới có sự báo ứng không tốt này. Phải mau kiểm điểm lại lỗi lầm, xét lại mình và thành tâm sám hối, nguyện không phạm nữa.
Giới luật
Thời mạt pháp, người tu pháp môn niệm Phật rất nhiều, nhưng người thành tựu hạnh nguyện lại rất ít. Then chốt quan trọng ở đây là do không cẩn thận giữ gìn giới luật đã thọ. Nếu hay giữ giới, cẩn thận lời nói và hành động, nghiêm khắc kiềm chế sự buông lung chính mình thì tất cả công đức đã có sẽ không tan mất, đạo nghiệp tự nhiên thành tựu. Nếu không giữ giới, không có kỷ luật nghiêm túc, muốn làm gì thì làm, thì tất cả công đức đã tạo sẽ tan mất hết, đạo nghiệp làm sao có thể thành tựu được?
Giới luật là căn bản
Thời chánh pháp khi Phật còn tại thế, Thánh Hiền lúc ấy phước huệ đều vượt xa bọn phàm phu chúng ta trong thời mạt pháp này. Phật dạy: ”Trì giới mới có thể thành đạo nghiệp”. Như đây có thể biết, giới luật là căn bản của tất cả giáo Pháp Phật dạy. Không có giới luật mà tu hành cũng như xây lầu trong hư không, hết sức nguy hiểm bởi sẽ có ngày sụp đổ.
Cố gắng giữ gìn giới luật
Chúng ta là những chúng sinh sinh vào thời mạt pháp. Nhắc đến giới luật, chúng ta không có chút tư cách gì để nói. Chúng ta từ sớm đến chiều hoặc nhiều hay ít, nặng hay nhẹ, do cố ý hay vô tình, đều có phạm đến giới luật đã thọ. Phải ôm lòng hổ thẹn và thành tâm sám hối, đem khả năng để trì giới, xa lìa cảnh trần ngũ dục mê hoặc bên ngoài. Cần phải thanh tịnh đời sống sinh hoạt của chúng ta. Thường xuyên quán chiếu và xét lại bản thân, đem giới luật làm tiêu chuẩn để áp dụng cho đời sống. Bởi khi đã phạm giới, tội lỗi ta sẽ nhận chịu. Ngược lại, công đức trì giới thù thắng sẽ thừa hưởng. Cho nên, trì một phần giới luật được một phần lợi ích, trì mười phần giới luật được mười phần lợi ích. Chúng ta hổ thẹn vì tự mình căn cơ thấp kém, chưa thể trì giới được viên mãn, nên phải thành thật khẩn thiết sám hối, dốc hết tâm ý niệm Phật cầu thần lực của Phật và Bồ Tát gia hộ, để mong với giới luật có phương hướng thực tế và khả năng trì giới được viên mãn.
Siêng năng hành pháp lễ Phật sám hối
Khi đã phạm giới, nhất định phải có tội và sẽ gánh lấy quả báo xấu. Phương pháp cứu tội duy nhất chính là hết lòng chân thật bày tỏ lỗi lầm và thành tâm sám hối. Phải thống thiết tỉnh xét lại mình, nguyện không phạm lại nữa. Chúng ta cần phải mỗi ngày, ở trước tượng Phật và Bồ Tát, siêng năng lễ lạy và sám hối. Dùng sức mạnh của sám hối để tiêu diệt lỗi lầm sai phạm của chúng ta.
Sửa đổi thói quen xấu
Học Phật chính là sửa đổi thói quen xấu. Sửa đổi thói quen không tốt của chính mình từ trước đến nay. Phần lớn thói quen của con người đều không lìa khỏi ba độc tham, sân, si.
Như pháp sám hối
Ý nghĩa sám hối chính là bày tỏ lỗi của chính mình, nguyện không bao giờ tái phạm lại. Nếu chỉ có một lỗi đó mà phạm đi phạm lại mà sám hối hoài, thì nơi sự tu tập của chính mình một điểm sửa đổi cũng không có. Đây không chấp nhận được là chân chánh như pháp sám hối.
Học Phật chính là sửa đổi thói quen xấu.
Hoà thượng Hư Vân Thường dạy chúng ta rằng: ”Học Phật chính là sửa đổi thói quen xấu. Nếu chúng ta có thể sửa đổi một phần thói quen xấu thì tự nhiên sẽ thành tựu một phần đạo nghiệp, có thể sửa đổi mười phần thói quen xấu liền có thể thành tựu mười phần đạo nghiệp. Do đó, người học Phật cần phải lo sửa đổi phần nhiều khuyết điểm và thói quen xấu của mình để ngày một tốt hơn”.
Sám hối
Cuộc sống hàng ngày, chúng ta luôn tạo bốn tội; sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối. Không những chỉ trong lời nói, hành động, cử chỉ, thậm chí đến cả khởi tâm động niệm không biết đã phạm bao nhiêu tội lỗi. Vì thế, kinh Địa Tạng nói rằng:”Chúng sinh trong cõi Nam Diêm phù đề, khởi tâm động niệm đều là tạo nghiệp tội lỗi”. Lại còn nói rằng: ”Nghiệp lớn có thể ngang bằng núi Tu Di, có thể rộng lớn như biển, hay làm chướng Thánh đạo”. Đã biết ta và người có đầy đủ nghiệp chướng phàm phu, vậy chúng ta mỗi ngày cần phải sám hối. Dùng sức mạnh sám hối để tiêu trừ cho sạch nghiệp chướng nhiều như cát sông Hằng mà chúng ta đã tạo ra.
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám hối
Tội từ tâm khởi, phải đem tâm sám hối. Sám hối nhất định phải từ chỗ sâu kín trong tâm, thành thật phát tâm hổ thẹn. Sám hối lỗi lầm của mình xong thề không tái phạm. Đây mới là chân chánh như pháp sám hối.
Lễ lạy 88 vị Phật
Phương pháp sám hối hay nhất chính là lễ lạy 88 vị Phật. Dùng phương pháp lễ lạy này để tiêu trừ nghiệp chướng từ nhiều đời trước. Trong lúc lạy Phật sám hối, vì đã có thệ nguyện của Chư Phật nên có thể giúp chúng ta tiêu trừ tội lỗi, tẩy trừ bốn trọng tội và Ngũ nghịch.
Lễ Phật sám hối
Trong quá trình lễ Phật sám hối, thân lễ Phật, miệng niệm Phật, ý tưởng đến Phật, nên ba nghiệp thân, khẩu, ý, thanh tịnh, sẽ được chư Phật theo ý bổn nguyện mà thêm sức gia bị. Như đây sám hối, tội lỗi tiêu trừ không thể nghĩ bàn, công đức đạt được cũng không thể nghĩ bàn.
Trích: Liên Trì Cảnh Sách
Việt dịch: Thích Quảng Ánh

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt

 Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông phẫn nộ, nhiều phật ý bị nói đến một chút thì bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận bất mãn. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ. Nếu sanh được ở loài người thì nó bị xấu sắc, con đường ấy đưa đến xấu sắc. Này thanh niên tức là phẫn nộ, bất mãn v.v...




(Trung Bộ Kinh, Kinh 135)

Tôi nghe như vầy:
Một hôm Thế Tôn ở thành Xá Vệ Kỳ Ðà, tại tinh xá ông Cấp Cô Ðộc. Rồi thanh niên Subha Todeyyaputta đi đến Thế Tôn. Sau khi đi đến nói với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm rồi, liền ngồi xuống một bên. Thanh niên Todeyyaputta bạch với Thế Tôn: Thưa Tôn giả Gotama do nhân gì, do duyên gì, giữa loài người với nhau, khi chúng là loài người, lại thấy có người liệt có người ưu?

Thưa Tôn giả Gotama chúng ta thấy có người đoản thọ (chết yểu), có người trường thọ (sống lâu), có người nhiều bịnh, người ít bệnh, có người xấu sắc, có người đẹp sắc, có người quyền thế lớn, người quyền thế nhỏ, người tài sản lớn, người tài sản nhỏ, có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý, có người có trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ trí tuệ? Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, duyên gì giữa loài người với nhau mà lại thấy có người liệt, người ưu?
Phật đáp:
- Này thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt có ưu.
- Tôi không hiểu nghĩa một cách rộng rãi điều mà Tôn giả Gotama nói một cách vắn tắt không có nghĩa rộng rãi. Lành thay! Nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho tôi, để tôi có thể hiểu nghĩa một cách rộng rãi, điều mà Tôn giả Gotama nói một cách vắn tắt, không có giải nghĩa rộng rãi, thì tôi không hiểu được.
- Vậy này thanh niên, hãy nghe và suy nghiệm Ta sẽ nói.
- Thưa vâng Tôn giả!
Rồi Thế Tôn nói như sau:
- "Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông sát sanh tàn nhẫn tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy. Sau khi thân hoại, mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục, nếu không sanh vào cõi dữ, mà được sanh làm loài người, chỗ nào nó sanh ra nó phải đoản mạng (chết yểu). Con đường ấy đưa đến đoản mạng. Này thanh niên tức là sát sanh tàn nhẫn, tay lấm máu, tâm chuyên sát hại đả thương, tâm không từ bi đối với các loại hữu tình.
Nếu từ bỏ sát sanh, biết tàm quí, có lòng từ, sống thương sót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và các loại hữu tình. Do nghiệp ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, nếu sanh ở loài người được trường thọ, đó là con đường đưa đến trường thọ.
Ở đây, này thanh niên có người đàn bà hay người đàn ông tánh hay não hại các loại hữu tình với tay với cục đất hay với cây gậy, cây đao. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu không sanh vào cõi dữ mà được đến loài người, chỗ nào nó sanh ra nó sẽ bị nhiều bệnh hoạn, con đường ấy đưa đến bệnh hoạn. Này thanh niên, tức là tánh hay não hại các loài hữu tình với tay, hay với cục đất, hay với cây gậy, cây đao.
Nhưng ở đây, này thanh niên, nếu từ bỏ não hại các loài hữu tình, có lòng từ đối với các loại chúng sanh. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung nó được sanh vào thiện thú. Nếu không sanh vào thiện thú, mà được sanh ở loài người thì nó được ít bệnh hoạn. Con đường ấy đưa đến ít bệnh hoạn.
Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông phẫn nộ, nhiều phật ý bị nói đến một chút thì bất bình, phẫn nộ, sân hận, chống đối và tỏ lộ phẫn nộ, sân hận bất mãn. Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ. Nếu sanh được ở loài người thì nó bị xấu sắc, con đường ấy đưa đến xấu sắc. Này thanh niên tức là phẫn nộ, bất mãn v.v...
Ở đây này thanh niên, nếu trái lại không phẫn nộ, không phật ý, không sân hận, bất mãn v.v... do nghiệp thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó được sanh vào thiện thú. Nếu được sanh ở loài người thì nó được đẹp sắc. Này thanh niên, tức là không phẫn nộ, không phật ý, không sân hận, không bất mãn v.v...
Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay người đàn ông tật đố (ganh tỵ) đối với người khác được quyền lợi, được tôn trọng, cung kính, tôn sùng, đảnh lễ cúng dường, sanh tâm tật đố (ganh ghét) ôm ấp tâm tật đố. Do nghiệp như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung nó sanh vào ác thú, nếu không sanh vào ác thú mà được sanh ở loài người thì nó chỉ được quyền thế nhỏ. Con đường đưa đến quyền thế nhỏ. Này thanh niên, tức là tật đố, ôm tâm tật đố.
Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông không bố thí cho vị Sa Môn hay Bà La Môn, đồ ăn uống, y phục, xe cộ, vòng hoa, hương liệu, ngọa cụ, nhà cửa, đèn đuốc. Do nghiệp ấy, đạo xứ, địa ngục. Nếu không bị đọa xứ, địa ngục mà được sanh ở loài người thì nó chỉ được tài sản nhỏ.
Này thanh niên, nếu ngược lại thì sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, nếu sanh ở loài người thì được tài sản (tài sản lớn).
Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, ngạo nghễ, kiêu mạn, không đảnh lễ những người đáng đảnh lễ, không đứng dậy đối với những người đáng đứng dậy, không mời ngồi đối với những người đáng mời ngồi, không tôn trọng đối với những người đáng tôn trọng, không cung kính đối với những người đáng cung kính, không cúng dường đối với những người đáng cúng dường. Do nghiệp ấy, thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, đọa xứ, nếu sanh được ở loài người thì nó được sanh vào gia đình hạ liệt. Con đường đưa đến gia đình hạ liệt là không cúng dường những người đáng cúng dường v.v...
Nhưng ở đây, này thanh niên, nếu ngược lại thì sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú. Nếu sanh ở loài người, thì nó được sanh vào gia đình cao quí. Con đường đưa đến gia đình cao quý là cúng dường những người đáng được cúng dường v.v...
Ở đây này thanh niên, có người đàn bà hay đàn ông, sau khi đến vị Sa Môn hay Bà La Môn không thưa hỏi:
- Thưa Tôn giả! Thế nào là thiện? Thế nào là bất thiện? Thế nào là phạm tội? Thế nào là không phạm tội? Thế nào là cần phải thực hành? Thế nào là không cần phải thực hành? Tôi phải làm gì để không phải lợi ích và đau khổ lâu dài? Hay tôi phải làm gì để được lợi ích và an lạc lâu dài? Do nghiệp ấy thành đạt như vậy, thành tựu như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, nó sanh vào ác thú, đọa xứ. Nếu sanh ở loài người thì ở vào loại trí tuệ kém. Con đường đưa đến trí tuệ kém, không được lợi ích và hạnh phúc lâu dài, tức là không thưa hỏi.
Ở đây này thanh niên, con đường đưa đến đoản thọ, dẫn đến đoản thọ, con đường đưa đến nhiều bệnh, dẫn đến nhiều bệnh, con đường đưa đến xấu sắc, dẫn đến xấu sắc, con đường đưa đến đẹp sắc, dẫn đến đẹp sắc, con đường đưa đến quyền thế nhỏ, dẫn đến quyền thế nhỏ, con đường đưa đến quyền thế lớn, dẫn đến quyền thế lớn, con đường đưa đến tài sản nhỏ, dẫn đến tài sản nhỏ, con đường đưa đến tài sản lớn, dẫn đến tài sản lớn, con đường đưa đến gia đình hạ liệt, dẫn đến gia đình hạ liệt, con đường đưa đến gia đình cao quí, dẫn đến gia đình cao quí. Con đường đưa đến trí tuệ yếu kém, dẫn đến trí tuệ yếu kém, con đường đưa đến đầy đủ trí tuệ, dẫn đến đầy đủ trí tuệ.
Này thanh niên Subha Todeyyaputta các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt có ưu".
Khi nghe nói như vậy, thanh niên Subha Todeyyaputta nói với Thế Tôn: "Thật vi diệu thay! Thưa Tôn giả Gotama. Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem ánh sáng vào trong bóng tối, để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện, trình bày giải thích. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y pháp, quy y chúng Tỳ Kheo. Mong Tôn giả nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung con trọn đời xin quy ngưỡng".

Bình
Nhìn chung trên nhân loại chúng ta không khỏi thắc mắc tại sao cũng đồng sanh làm người lại có sự sai biệt: Như người sống lâu, kẻ chết yếu, người mạnh khỏe, kẻ thì đau ốm, người nhan sắc đẹp đẽ, kẻ thân thể xấu xa, người sanh ra có những tài sản, có quyền thế lớn lao, người sanh ra nghèo cùng hạ liệt. Cho đến phần tinh thần cũng khác: kẻ khôn, người dại, kẻ thông minh, người ngu tối v.v...
Ở đây Phật căn cứ theo nghiệp để giải thích. Phật dạy: "Các loài hữu tình là chủ của nghiệp là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình, nghĩa là có liệt có ưu".
Các loài hữu tình (Tất cả chúng sanh có tình thức) đều là chủ nhân ông của tạo nghiệp. Nghiệp là những tập quán, những thói quen do ta huân tập lâu đời thành nghiệp, như người tập uống rượu lâu thành người nghiền rượu, người tập đánh bạc lâu thành người cờ bạc v.v... nó phát xuất từ thân, miệng, ý của chúng ta chứ không phải từ đâu đem đến, nên gọi là "chủ tạo nghiệp". Khi đã tạo thành nghiệp, chúng hữu tình luôn luôn bị lệ thuộc vào nghiệp, làm tôi đòi cho nghiệp, như đầy tớ bị chủ nhà sai khiến. Nên gọi là "thừa tự" của nghiệp.
Từ nghiệp chuyễn biến mà chúng hữu tình sanh các cảnh giới lành, hoặc dữ v.v... nên gọi nghiệp là "thai tạng". Cuộc sống của các hữu tình đều hòa đồng với nghiệp không thể chia cách, như bà con thân thiết nên gọi là "quyến thuộc". Nghiệp là chỗ nương tựa cho mạng sống của chúng hữu tình. Còn nghiệp thì mạng sống còn, hết nghiệp thì mạng sống cũng theo đó mà dứt, nên gọi nghiệp là "điểm tựa". Các loài hữu tình bị luân chuyễn trong ba cõi sáu đường, đều do nghiệp dẫn và phân chia trong các cõi, nên gọi nghiệp "phân chia" các loài hữu tình. Chúng sanh có ưu liệt bất đồng gốc bởi do nghiệp không chi khác.
(Phần này nói tổng quát của nghiệp, chúng ta nên xem lại văn kinh để rõ thêm về chi tiết của nghiệp mà Phật đã giải thích qua bài "Kinh Tiểu nghiệp phân biệt" này).
Tóm lại, nghiệp là động cơ tạo thành cuộc sống sai biệt của con người. Nghiệp có sức mạnh lôi cuốn chúng sanh vào vòng lục đạo. Bởi nghiệp mà tạo nên quả khổ vui cho chúng sanh hiện tại và tương lại...
Nghiệp phát xuất từ thân, khẩu, ý. Nếu thân, khẩu, ý hướng về chiều thiện thì con người sẽ tiến lên địa vị cao hơn như các cõi Trời v.v... Trái lại, nếu hướng về chiều ác thì con người phải đọa xuống địa ngục, ngạ quỉ v.v... Vì thế mà có lục đạo luân hồi. Trong hiện đời mỗi hành động tạo nghiệp đều có kết quả hiện tại và mai sau.
Nghiệp có tác dụng lớn lao như thế, nên người tu phải thận trọng, trong mọi lời nói, mọi ý nghĩ, mọi việc làm, phải cân nhắc kỹ lưỡng. Nhất là đối với ý nghiệp càng phải thận trọng hơn. (Vì ý nghiệp là chủ động tạo nghiệp). Nghiệp đã tạo thì quả báo khó tránh. Kinh Nhân Quả có câu: "Giả sử bá thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong, nhân duyên hội ngộ thời quả báo hoàn tự thọ". Nghĩa là: Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp đã tạo không mất, khi đã đủ nhân duyên, quả báo tự mình chịu.
Vậy ai là người muốn hiện đời được an lạc hạnh phúc và sau khi lâm chung được kết quả sanh các cảnh giới lành phải tránh các điều dữ, làm các việc lành. Tiến lên một từng nữa, muốn ra khỏi luân hồi trong ba cõi, cũng phải giữ gìn ba nghiệp cho thanh tịnh, trì giới trang nghiêm, khiến phiền não vô minh lần lần dứt sạch, thì chắc chắn chúng ta sẽ thoát ly sanh tử, bằng chứng Phật dạy: "Ba nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương".
(Nguồn: Thiền Viện Thường Chiếu)

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Thư Mời Khoá Tu Đàn Pháp Chuẩn Đề


Trân trọng kính mời quý Phật tử về Chùa tham dự khoá Tu:
Đàn Pháp Chuẩn Đề (Bố Sắc Trí Ca Pháp) từ 14:00 giờ ngày thứ Bảy 19.04.2014 đến 14:00 giờ ngày Chủ Nhật 20.04.2014.










Vào Đàn pháp Chuẩn Đề
Trân trọng kính mời quý Phật tử về Chùa tham dự khoá Tu:
Đàn Pháp Chuẩn Đề (Bố Sắc Trí Ca Pháp)
THỜI GIAN:
http://www.todinhgiacnguyen.com/uploads/spaw2/images/DSC01363.jpgKể từ 14:00 giờ ngày thứ Bảy 19.04.2014 đến 14:00 giờ ngày Chủ Nhật 20.04.2014.


Quý vị tham dự Đàn Pháp nhớ mang theo một kiếng đàn, một khăn choàng màu vàng cùng túi ngủ và dụng cụ vệ sinh cá nhân.

Mọi chi tiết cần biết xin liên lạc:

Mobil: 0176-811 567 16
Tel: 069-48 44 98 12


THÔNG BÁO MỚI! THÔNG BÁO MỚI!

Trong khoá Tu Đàn Pháp Chuẩn Đề vào lúc 10:00 giờ, ngày 20.04.2014 Thượng Toạ Thích Tâm Hạnh đến từ Việt Nam sẽ có một buổi thuyết pháp dành cho các Phật tử. 



CÁO LỖI! CÁO LỖI! CÁO LỖI!

Buổi  "Thuyết Pháp và Hướng Dẫn Cách Thức Tu Học" do HT Thích Minh Nghĩa theo dự tính sẽ được tổ chức:

THỜI GIAN:
Từ 10:00 giờ ngày 26.04.2014 đến 14:00 giờ ngày 27.04.2014

nhưng do thân Mẫu của HT Thích Minh Nghĩa trở bệnh năng đột ngột, do vậy Hoà Thượng đã phải đình hoãn chuyến hoằng pháp tại Châu Âu, và cũng vì lý do trên nên buổi "Hướng Dẫn Cách Thức Tu Học" do Hoà Thượng chủ giảng tại chùa Phật Huệ đáng tiếc cũng phải huỷ bỏ. 

Ban Tổ Chức thành thực cáo lỗi cùng quý Phật tử vì nhân duyên bất khả kháng này.

BBT

Hình Ảnh Khoá Tu Bát Quan Trai 15-16.03.2014

Xin giới thiệu cùng quý Phật tử những hình ảnh ghi lại từ khoá Tu Bát Quan Trai do chùa Phật Huệ tổ chức ngày 15-16.03.2014 vừa qua...




Xin quý vị hoan hỉ bấm vào những tấm hình 
để xem khổ lớn hoặc slideshow